Thứ Bảy, 21 tháng 1, 2017

Thơ Paul Claudel


Paul Claudel (tên đầy đủ: Paul-Louis-Charles-Marie Claudel) (5 tháng 8 năm 1868 – 23 tháng 2 năm 1955) là nhà ngoại giao, nhà văn, nhà thơ Pháp.

Tiểu sử:
Paul Claudel sinh ở Villeneuve-sur-Fère trong gia đình một công chức tỉnh lẻ. Bố là Louis-Prosper, mẹ là Louise Cerveaux. Hồi nhỏ học ở Lycee Bar-le-Duc, tỉnh Champagne, sau gia đình chuyển lên Paris học ở Lycée Louis-le-Grand. Từ năm 1893 làm ở Bộ ngoại giao Pháp. Từng làm lãnh sự và Đại sứ ở nhiều nước châu Âu, châu Á, châu Mỹ. Paul Claudel được tặng thưởng huân chương Đại thập tự, năm 1946 được bầu làm thành viên của Viện hàn lâm Pháp.

Paul Claudel được coi là nhà thơ cuối cùng của phái ấn tượng, là nhà thơ có khuynh hướng hoài cổ và tôn giáo. Theo lời của chính Paul Claudel, thì cuốn sách gối giường của ông là Kinh Thánh và tất cả sáng tác của ông làm thành một cuốn Kinh Thánh mới. Paul Claudel không quan tâm đề tài về “những người nào” mà “họ phải trở thành những người nào”. Với vai trò của một nhà thuyết giáo, ông làm thơ theo thể tự do (chịu ảnh hưởng của Walt Whitman) và những bài văn xuôi theo phong cách Kinh Thánh, mà theo lời ông, thể hiện nhịp điệu tự nhiên của trái tim và hơi thở con người. Những tác phẩm thơ nổi tiếng nhất của ông có thể kể đến Cinq grands odes (Năm bài ode lớn, 1910), La cantate а trois voix (Bản đại hợp xướng dành cho ba giọng, 1931). Ngoài ra, rất nhiều vở kịch của ông được dựng thành những bộ phim nổi tiếng. Ông mất ở Paris năm 1955.

Tác phẩm:
Kịch:
*Tête d'or (1890)
*La Jeune Fille Violaine (1892)
*La Ville (1893)
*L'Échange; Tête d'Or (1894)
*La Jeune Fille Violaine (1901)
*Le Repos du septième jour (1901)
*L'Otage (1911)
*L'Annonce faite à Marie (1912)
*L'Ours et la Lune (1917)
*Le Pain dur (1918)
*Les Choéphores d'Eschyle (1919)
*Le Père humilié (1920)
*Les Euménides d'Eschyle (1920)
*Protée (1920, первый вариант)
*Le Soulier de satin (1929)
*Le Livre de Christophe Colomb (1933)
*Jeanne d'Arc au bûcher (1939)
*La Sagesse ou la Parabole du destin (1939)
*L'Histoire de Tobie et de Sara (1942)
*Le Partage de midi (1948)
*Protée (1949)

Thơ:
*Connaissance de l'Est (1896)
*Poèmes de la Sexagésime (1905)
*Processionnal pour saluer le siècle nouveau (1907)
*Corona benignitatis anni dei (1915)
*La Messe là-bas (1919)
*Poèmes de guerre (1914-1916) (1922)
*Feuilles de saints (1925)
*Cent phrases pour éventails (1942)
*Visages radieux (1945)
*Accompagnements (1949)

Văn xuôi:
*Positions et propositions, tome I-II (1928, 1934)
*L'Oiseau noir dans le soleil levant (1929)
*Conversations dans le Loir-et-Cher (1935)
*Figures et paraboles (1936)
*Contacts et circonstances (1940)
*Seigneur, apprenez-nous à prier (1942)
*L'Œoeil écoute (1946)
*Emmaüs (1949)
*Une voix sur Israël (1950)
*L'Évangile d'Isaïe (1951)
*Paul Claudel interroge l'Apocalypse (1952)
*Paul Claudel interroge le Cantique des Cantiques (1954)
*Conversation sur Jean Racine (1956)
*Sous le signe du dragon (1957)
*Qui ne souffre pas... Réflexions sur le problème social (1958)
*Présence et prophétie (1958)
*La Rose et le rosaire (1959)
*Trois figures saintes pour le temps actuel (1959)

Nhật ký:
*Mémoires improvisés. Quarante et un entretiens avec Jean Amrouche (1954)
*Journal. Tome I : 1904-1932 (1968)
*Journal. Tome II : 1933-1955 (1969)

Thư từ:
*Correspondance de Paul Claudel et André Gide (1899-1926) (1949)
*Correspondance de Paul Claudel et André Suarès (1904-1938) (1951)
*Correspondance de Paul Claudel avec Gabriel Frizeau et Francis Jammes (1897-1938) (1952)
*Correspondance Paul Claudel et Darius Milhaud (1912-1953) (1961)
*Correspondance de Paul Claudel et Aurélien Lugné-Poë (1910-1928) (1964)
*Correspondances avec Copeau, Dullin, Jouvet (1966)
*Correspondance de Jean-Louis Barrault et Paul Claudel (1974)
*Correspondance de Paul Claudel et Jacques Rivière (1907-1924) (1984)
*Lettres de Paul Claudel à Élisabeth Sainte-Marie Perrin et à Audrey Parr (1990)
*Correspondance diplomatique. Tokyo (1921-1927) (1995)
*Correspondance de Paul Claudel et Gaston Gallimard (1911-1954) (1995)
*Le Poète et la Bible, volume 1, 1910-1946 (1998)
*Le Poète et la Bible, volume 2, 1945-1955 (2002)
*Correspondance de Paul Claudel avec les ecclésiastiques de son temps. Volume I, Le sacrement du monde et l'intention de gloire (2005)
*Une amitié perdue et retrouvée: correspondance de Paul Claudel et Romain Rolland (2005



BALLADE

(Nous sommes partis bien des fois déjà…)

Ta đã từng ra đi biết bao lần, nhưng lần này – lần cuối.
Những người thân yêu ta bỏ lại. Con tàu không đợi, ta giã biệt trên đường.
Cảnh như thế này lặp lại đã nhiều lần, nhưng lần này – lần cuối.
Còn các bạn nghĩ rằng: ta biết đi đâu? Ta đang đi – hãy nhìn xem.
Vĩnh biệt mẹ! Sao mẹ khóc như người đang còn hy vọng hay ngờ vực?
Cái điều không thể khác, không đáng khóc, không đáng để nước mắt rơi từ đôi mắt của ta.
Hay các bạn quên rằng ta là bóng và đi, như bóng, các bạn cũng là bóng, bóng ma?
Ta đã không còn bao giờ gặp mặt.

Ta chia tay những người phụ nữ: những người vợ chung thủy, những bạn gái, những người đáng trách.
Đã đành với tiếng thì thầm của phụ nữ: ta cô đơn, ta nhẹ nhàng như đứng trước tận cùng.
Nhưng trong giây phút cuối, trong giờ này ủ rũ và trang nghiêm
Cho phép ta nhìn vào gương mặt của em, một khi ta chưa trở thành người khác
Một khi ta chưa biến mất. Hãy cho ta nhìn vào gương mặt của em! Còn sau đấy thì em sẽ nhìn kẻ khác
Nhưng em hãy nói với ta dù chỉ một lời, rằng em sẽ yêu đứa con
Đứa con trai, linh hồn và máu của ta: cái tên “cha” sẽ trao cho người khác.
Ta đã không còn bao giờ gặp mặt.

Vĩnh biệt nhé, bạn bè! Ta ở quá xa để có thể làm cho bạn bè tin tưởng
Chỉ sự tò mò và mạnh dạn. Mặt đất mà các bạn chưa từ giã một lần, gọi là bền vững cho mình.
Hãy để lại những thứ gì ta đã nhận, như một món quà, như mạch nguồn của sự vui vẻ bất thình lình:
Hiểu biết về sự uổng công và cái chết của con người, chỉ có ở những ai cho rằng mình đang sống.
Tất cả vẫn còn đây: khôn ngoan và đần độn, trống rỗng và dày đặc.
“Cuộc sống tự do, khoa học và nghệ thuật…” Ô, những anh em này có còn ở trong ta?
Có cho phép ra đi, nếu tĩnh lặng các người không thể đem cho?
Ta đã không còn bao giờ gặp mặt.

Lời gửi


Các bạn ở lại, chúng tôi đã lên tàu, những cánh cửa lúc này đóng chặt.
Không còn gì ngoài khói trên trời. Đừng đợi rằng chúng tôi sẽ còn quay lại trần gian.
Không còn gì ngoài mặt trời và nước của Chúa Trời, như trong buổi đầu tiên.
Ta đã không còn bao giờ gặp mặt.



BALLADE

(Les négociateurs de Tyr...)

Những nhà buôn của Týros* xưa và những nhà buôn hôm nay đi biển bằng những con thuyền lớn
Những ai được mòng biển nghiêng cánh như vẫy chiếc khăn tay rồi những cánh tay vẫy khăn mất hẳn
Những ai có ít những vườn nho nhưng đã có sự hình dung về đất nước Hoa Kỳ
Những ai đã ra đi mãi mãi và họ sẽ chẳng quay về
Những ai háo hức khoảng cách, biển trong tay họ, bạn nghĩ rằng thế là đầy đủ?
Những ai từng một lần ép môi vào chén, nhưng chưa uống đến cùng
Con đường sẽ xa xăm, nhưng dù sao, rất dễ dàng để thử
Chỉ cần thành công với ngụm đầu tiên. 

Thủy thủ của những con tàu chìm được đưa vào bảng thống kê tang
Những con tàu chiến đột ngột tìm ra được đáy của biển xanh
Những con tàu tuần tra và cả những tàu ngầm đủ thứ
Và tất cả những gì xáo trộn lung tung khi sống đuôi tàu vênh trong không khí
Thì số phận họ nằm gọn trong đường chân trời có hình tròn
Biển tự di chuyển về phía họ mà không cần tìm kiếm con đường
Người ta cứ việc mở rộng miệng ra thật to, và đón nhận:
Chỉ cần thành công với ngụm đầu tiên. 

 Hành khách của con tàu lớn xuyên Đại Tây Dương nói gì trong đêm
Cái đêm trước ngày cuối cùng, khi nghe điện báo viên kêu: “Ta đang chìm!”
Khi đó trong khoang hạng ba, những người di cư đang múa hát
Còn biển dồn lên, dập xuống, không ngừng cắt tiếng nhạc
“Những gì một lần đã ra đi rồi sao vẫn cứ tiếc thương?
Mong bắt đầu lại để làm chi, nếu đã biết tất cả vô thường?
Tìm người thân là điều tốt, nhưng tốt nhất là quên lãng:
Chỉ cần thành công với ngụm đầu tiên”.  

Lời gửi


Không có gì, ngoài biển ở quanh ta, ngoài việc biển dập xuống, dồn lên!
Đủ rồi một cái dằm ở trong tim, đủ rồi những tháng ngày nhỏ giọt!
Biển còn đến muôn năm, ta ở trong biển, và không cần gì khác!
Chỉ cần thành công với ngụm đầu tiên”.  
_______________
*Týros (tiếng Pháp: Tyr) – là thành phố cảng của quốc gia Phênixi (Phoenicia) cổ đại (nay là Liban). 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét