Thứ Bảy, 21 tháng 1, 2017

Thơ Fredéric Mistral


Fredéric Mistral (8 tháng 9 năm 1830 – 25 tháng 3 năm 1914) – nhà thơ Provence, Pháp đoạt giải Nobel Văn học 1904 (cùng với nhà viết kịch Tây Ban Nha José Echegaray) “nhằm ghi nhận sự độc đáo và cảm hứng thực sự của các tác phẩm thơ phản ánh trung thành khung cảnh tự nhiên và tinh thần bản xứ của người dân, và ngoài ra, ghi nhận công việc quan trọng của ông như là một nhà ngữ văn Provence”. Ông đã dùng tiền của giải thưởng Nobel lập Bảo tàng Văn hóa Dân gian Provence. Frederic Mistral là thành viên sáng lập của Félibrige và là thành viên của Viện Hàn lâm Marseille.

Tiểu sử: 

Frederic Mistral sinh ngày 8 tháng 9 năm 1830 tại làng Maillane, Pháp, giữa Avignon và Arles của thung lũng sông Rhône. Ông lớn lên giữa khung cảnh thiên nhiên kỳ diệu của quê hương, giữa những người dân quê và ông sớm quen với công việc của họ. Bố ông là một trại chủ giàu có, người toàn tâm toàn ý với những phong tục của đức tin và tổ tiên. Mẹ ông nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ của ông qua những bài hát và truyền thống quê hương. Trong suốt thời gian theo học ở Avignon, cậu bé đã đọc những tác phẩm của Homer và Virgil, những tác phẩm đã tạo ấn tượng sâu sắc trong tâm hồn ông. Một trong các giáo sư, nhà thơ Joseph Roumanille, đã thổi vào ông tình yêu tha thiết đối với tiếng mẹ đẻ, tiếng Provence. Năm 1851 ông tốt nghiệp Đại học rồi dành toàn bộ thời gian của mình cho sự nghiệp văn học. Năm 1854 ông cùng với sáu nhà thơ khác đã sáng lập Félibrige - Hiệp hội Hỗ trợ Phát triển Ngôn ngữ và Văn học Provence, xuất bản tạp chí Almanach Provence cùng Joseph Roumanille. Suốt đời Mistral hoạt động không mệt mỏi cho Félibrige và mơ ước phục hồi nền văn học và ngôn ngữ Provence.

Năm 1859 ông xuất bản thiên trường ca Miréio, viết về một cô gái thôn quê ngoan ngoãn và xinh đẹp không thể lấy được người mình yêu vì bố cô không đồng ý. Tuyệt vọng, cô trốn nhà đến nương nhờ tại một nhà thờ nơi hành hương của những người theo đạo Three Saint Marys trên đảo Camargue, vùng châu thổ sông Rhône. Tác giả đã kể lại một cách quyến rũ tình yêu trẻ trung của cô gái và mô tả bằng nghệ thuật bậc thầy cuộc chạy trốn của cô qua cao nguyên Crau lởm chởm đá. Kiệt sức vì cái nắng như thiêu như đốt của vùng Camargue, cô gái trẻ bất hạnh cuối cùng cũng đến được nhà thờ để chết. Nơi đó, trong ảo ảnh, ba vị thánh Mary đã hiện lên trước mắt cô đúng lúc cô trút hơi thở cuối cùng. Bi kịch tình yêu này được nhiều nhà thơ lớn của nước Pháp đánh giá cao. A. Lamartine vốn là một người luôn cẩn trọng vẫn bị quyến rũ bởi những tác phẩm hay, đã viết: “Một nhà thơ vĩ đại đã ra đời”. Ông so sánh thơ của Mistral với một hòn đảo trong quần đảo, một Delos trôi nổi đã phải tự tách mình ra khỏi quần thể để âm thầm đến với Provence ngát hương. 


Năm 1875 Mistral xuất bản tập thơ Những hòn đảo vàng, gồm những bài thơ trữ tình bất hủ. Cuốn từ điển Provence - Pháp Kho báu Félibrige là tác phẩm độc đáo của ông, mang tính bách khoa thư, chứa đựng những kiến thức phong phú về phương ngữ, văn học dân gian, phong tục tập quán, tín ngưỡng của một nền văn hóa. Năm 1890 ông hoàn thành vở kịch duy nhất của mình là Nữ hoàng Jano


Frederic Mistral mất ngày 25-3-1914 do bị cảm lạnh khi đang nghiên cứu văn khắc trên quả chuông nhà thờ Mainllane, để lại những câu thơ khiến người ta nghĩ rằng: các nền văn minh có thể chết nhưng không bao giờ biến mất. 
Thơ của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng, trong đó có tiếng Việt. 

Tác phẩm:
*Miréio (1859), trường ca
*Calendau (1867), trường ca
*Những hòn đảo vàng (Lis isclo d'or, 1876), tập thơ
*Nerto(1884), thơ.
*Kho báu Felibrige (Lou tresor dóu Félibrige, 1878-1886), từ điển
*Nữ hoàng Jano (La Rèino Jano, 1890), kịch
*Trường ca sông Rhone (Lou Pouèmo dóu Rhone, 1897), trường ca
*Hồi kí Mistral (Moun espelido: memori è raconte, 1906), hồi kí
* Mùa thu hoạch oliu (Les oulivado,1912), tập thơ




Ôi MAGALI

- Ôi Magali, ôi thiên thần của anh
Hãy thức dậy và nhìn ra cửa sổ
Tiếng lục lạc của anh đang kêu đó
Cùng với tiếng vĩ cầm.
Trời đầy sao và đợi ánh bình minh
Nhưng mà em hãy hiện
Những vì sao sẽ trở thành màu xám
Khi đứng trước em.

“Hãy để tôi yên cùng với cây đàn
Tôi không yêu những lời dại dột
Còn nếu không, tôi như con cá chạch
Sẽ lặn vào giữa sâu thẳm màu xanh”.
- Ôi Magali, Magali của anh
Nếu mà em trở thành con cá chạch
Thì anh sẽ làm người đi câu bắt
Và em sẽ là của anh.

“Nhưng một khi vằng lưới anh chưa buông
Thì tôi đã thành con chim bay vào bụi
Và sẽ mỉm cười anh đau khổ với
Đống vằng lưới của anh”.
- Ôi Magali, nếu như em trở thành
Con chim bay vào bụi
Thì anh làm người săn chim cùng với lưới
Và em sẽ là của anh.

“Thì khi đó tôi cất cánh bay cao
Và sẽ hoá thành đám mây, xa thẳm
Tôi sẽ bay về nơi cuối tận
Theo gió, đuổi những con tàu”.
- Ôi Magali, nếu em theo ngọn gió
Bay về chốn xa xăm
Thì anh sẽ hoá thành bão tố
Và em sẽ là của anh.

“Trước bão tố tôi sẽ không đầu hàng
Đã có mặt trời che chở
Nơi đó tôi cháy như ngọn lửa
Và toả ánh hào quang!”
- Nếu em thành ánh sáng, Magali của anh
Thì anh sẽ hoá thành con rắn biển
Dưới ánh mặt trời anh sưởi ấm
Và em sẽ là của anh.

“Không ánh sáng, chẳng lửa hồng
Sẽ không trao cho con rắn
Tôi sẽ hoá thành trăng lạnh
Sẽ bơi trên mặt đất ngủ mơ màng…”
- Ôi Magali, nếu em hoá thành trăng
ánh trăng trong đêm vắng
Thì anh sẽ hoá thành làn sương mỏng
Và em sẽ là của anh.

“Lời gian dối không thể chiếm được tôi
Tôi sẽ tìm ra lối thoát
Sẽ hoá thành một rừng cây
Và sẽ đeo vỏ cây bì lên mặt…”
- Ôi Magali, Magali, em cứ việc
Cứ là một rừng xanh
Còn anh sẽ là dây trường xuân quấn chặt
Và em sẽ là của anh.

“Tôi sẽ vào tu viện, theo con đường
Thoát cõi đời lăng xăng, bận rộn
Để sống trong nghiêm khắc, lặng yên, màu trắng
Giữa lời nguyện cầu và sự trắng trong…”
- Ôi Magali, nơi đó em trở thành
Một Nàng dâu của Chúa
Còn anh sẽ thành cái bàn hầu hạ
Và em sẽ là của anh.

“Không! Nếu bằng sức mạnh hoặc láu lỉnh, tinh ranh
Mà người ta cho anh vào tu viện
Thì sẽ thấy một nấm mồ khói hương bay quyện
Và cây thập ác, mô đất mới đắp lên!”
- Ôi Magali, nếu em cứ giấu mình
Trong ngôi mồ bí ẩn
Thì anh đây sẽ đi về đất lạnh
Để em sẽ là của anh.

“Khoan, đừng vội đi đâu… em sẽ ra ngoài hiên
Để cho, không một ai nghe thấy
Chiếc nhẫn pha lê này, anh cầm lấy
Và hãy đừng quên, đừng phụ tình em…”
- Ôi Magali của anh!...
Bây giờ em hãy nhìn
Con tim này này mở rộng
Những vì sao sẽ trở thành màu xám
Khi đứng trước em!



GỬI LOUIS

Tình đốt lên ngọn lửa
Ngọn lửa cháy bừng lên
ánh hào quang rạng rỡ
Trong ánh mắt người tình.

Giờ nỗi buồn vây quanh
Như bóng đêm dày đặc
Nhưng sẽ đến hào quang
Khoảnh khắc cần nắm bắt.

Hỡi chàng trai si tình
Tình yêu như đồng cỏ
Giao cho người cắt cỏ.

Bông hoa đỏ cháy lên
Xin nói cùng người bạn
Hãy trao cho dao chạm.


GẶP GỠ

Tôi đi qua bãi tắm
Trên bãi cát vàng
Vẻ dịu dàng của cô gái da ngăm
Bừng lên như ảo ảnh
Và khung cửa mở toang
Bờ môi của em
Uống ngọn gió mặt trời
Cửa đóng.

Nàng tựa hồ như giấc mộng
“Anh hãy là của em” –
Tôi cầu nguyện. 

Nỗi đam mê dâng lên
Lòng tôi trĩu nặng. 

Nàng giơ cánh tay tuyệt trần
Và kêu lên:
“Hãy để cho đôi cánh
Của tình yêu đưa ta đến hào quang”.

Thung lũng tình yêu
Trong bóng rừng sồi. 

Con đường dẫn ta về đập nước
Của những điều khao khát
Ta đến gần hơn chốn xa xôi
Ta ở đây chỉ có hai người
Cuộc đời hãy chết
Nhưng hãy gìn giữ thơ tôi.

Hãy gìn giữ tiếng thì thầm dịu ngọt
Những giấc mơ giữa ban ngày
Những nụ hôn khao khát
Những tình cảm mê say
Hãy gìn giữ những giọt lệ, tiếng cười
Và bầu nhiệt huyết
Của tình yêu sơ suất
Và hãy giữ gìn khoảng rộng bao la.

Cây cỏ mọc trên núi An-pơ
Hút vào những tuyết
Rồi hương thơm lại rót
Trên cỏ và hoa
Mùa xuân đến tự bao giờ
Trên bờ môi người yêu dấu nhất
Và nụ cười trên môi
Hương thơm ngào ngạt.

Khi mũi tên vô hình
Vào tôi đâm thủng
Tiếng gọi của người tình
Trong cỏ hoa vang vọng
Không còn nghe tiếng sấm vang lên
Và nước trên đồi đổ xuống
Dòng thác lăn nhanh
Như tên bắn.

Trong thung lũng đam mê
Và trong tổ lá
Khi hạnh phúc ta nhớ về
Rơi xuống một ngôi sao lạ
Vội vàng ngạt thở
Rơi xuống thật xa
Than ôi, lối quay trở về
Dành cho ta đã không còn nữa.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét