Thứ Bảy, 21 tháng 1, 2017

Thơ François Villon


François Villon (tên thật là François de Montcorbier hoặc François des Loges – sinh khoảng năm 1431 hoặc 1432, mất khoảng sau năm 1463, trước năm 1491) là nhà thơ lớn cuối cùng của thơ ca Trung cổ Pháp. François Villon còn nổi tiếng là một tên đạo chích, một kẻ lãng du, là nhà thơ thiên tài của nhiều bài thơ nổi tiếng. Câu hỏi "Mais où sont les neiges d'antan?" (But where are the snows of yesteryear? - Nhưng đâu rồi những bông tuyết ngày xưa?) từ bài Ballade des dames du temps jadis (The Ballad of Yesterday's Belles – Bài thơ về những người đẹp ngày xa) do Dante Gabriel Rossetti dịch sang tiếng Anh đã trở thành một câu truyền miệng yêu thích nhất xưa nay trong thế giới Anh ngữ.

Tiểu sử:
Về cuộc đời của François Villon – chủ yếu là qua những phỏng đoán và truyền thuyết. Ta biết rằng François Villon sinh ở Paris. Mồ côi năm lên 8 tuổi, được linh mục Guillaume de Villon – người mà nhà thơ coi là “còn hơn cả bố” (plus que père) – nhận làm con nuôi. Năm lên 12 tuổi vào học khoa dự bị Đại học Paris và đến năm 1449 nhận bằng cử nhân, năm 1452 nhận bằng thạc sĩ. Cuộc sống sinh viên khốn khó của nước Pháp thời Chiến tranh trăm năm ( tiếng Anh: Hundred Years' War, tiếng Pháp: Guerre de Cent Ans) khiến Villon dễ bị lôi kéo tham gia vào thế giới tội phạm.

Ngày mồng 5 tháng 6 năm 1455 trong một vụ đánh nhau vì phụ nữ, Villon đã đâm linh mục Philippe Chermoye bị thương nặng sau đó dẫn đến cái chết của vị linh mục này. Villon phải bỏ trốn khỏi Paris, mặc dù tòa án sau đấy không kết tội Villon vì cho rằng đấy là hành động để tự vệ và chính nạn nhân cũng thừa nhận mình là người có lỗi. Bảy tháng lang thang trong cảnh không tiền, Villon tiếp xúc với nhiều nhóm tội phạm và tham gia vào 2 vụ trộm. Trở về Paris, Villon cùng 3 tên trộm khác trộm của trường Collège de Navarre trong đêm trước Giáng sinh 500 đồng tiền vàng và ngay sau đấy liền bỏ trốn khỏi Paris. Ngay sau vụ trộm trong đêm trước Giáng sinh này Villon đã sáng tác Le petit testament (Chúc thư nhỏ). Vụ trộm này sau đó được tìm ra nên Villon không thể quay lại Paris. Từ đây bắt đầu một thời kỳ phiêu bạt của ông từ la Manche ở phía bắc nước Pháp cho đến Roussillon ở Địa trung hải. Một thời gian Villon ở lại dinh cơ của nhà thơ, bá tước Charles d'Orléans. Nhà thơ, bá tước tổ chức một cuộc thi thơ về chủ đề: “Chết khát bên bờ suối”. François Villon viết bài thơ Ballade du concours de Blois (Bài ballade về cuộc thi thơ ở Blois) sau này nổi tiếng cả với tên Ballade des Contradictions (Bài ballade của những mâu thuẫn). Theo thể lệ cuộc thi các nhà thơ cần viết một bài thơ có tính chất khôi hài, vui nhộn nhưng bài thơ của Francois Villon thì lại đầy chất triết lý và bi kịch:

Tôi khổ sở chết khát bên bờ suối
Tôi cười qua nước mắt, làm việc khi chơi
Dù đi đâu – khắp chốn đều nhà tôi
Quê hương tôi – là vương quốc xa lạ
Tôi không biết gì, và tôi biết cả.
Tôi dễ gần, tôi rất hiểu những ai
Gọi thiên nga là quạ đen giữa trời.
Tôi nghi cái thực, tin điều kỳ lạ
Trần như nhộng, áo quần như vua chúa.
Được đón chào và bị đuổi khắp nơi.

Tôi keo kiệt, tiêu hoang trong mọi thứ
Tôi đợi chờ mà chẳng đợi điều chi
Thiên đường không vui bằng nước mắt kia
Tôi nghèo xơ và tôi khoe của nả
Thấy hoa hồng khi run vì băng giá
Tôi nhóm lửa mà run rẩy trong người
Chỉ giá băng sưởi ấm được lòng tôi.
Nhớ câu đùa và bỗng nhiên quên hết
Ai đáng trọng và ai cần khinh miệt.
Được đón chào và bị đuổi khắp nơi.

Tôi nhìn rõ những ngôi sao giữa trời
Nhưng không thấy ai đi ngoài cửa sổ
Tôi thức ban đêm, chỉ ngày tôi ngủ.
Tôi bước đi trên mặt đất dè chừng
Không tin cột mốc, chỉ tin màn sương.
Người điếc nghe ra lời tôi và hiểu
Tôi biết rằng mật đắng hơn ngải cứu
Đâu dối gian, đâu sự thật ở đời
Không nhớ gì và nhớ tất mọi thứ
Được đón chào và bị đuổi khắp nơi

Không biết giờ dài hơn - hay năm tháng
Lội qua sông hay bơi qua biển lớn?
Tôi đi về địa ngục từ bầu trời.
Tuyện vọng đem về cho tôi hy vọng.
Được đón chào và bị đuổi khắp nơi.


Mùa hè năm 1460 Villon đang ở trong tù và chờ ngày bị tử hình thì được thả nhờ một chuyến viếng thăm Orleans của gia đình bá tước trong một dịp lễ. Tháng 10 năm 1462 Villon bị giam ở nhà tù Maine-et-Loire cũng được phóng thích nhờ vào dịp nhà vua Louis XI đi qua đây. Cuối năm này ông quay trở về Paris vì đã cảm thấy yếu sức. Thời gian cuối của cuộc đời ông đã viết những tác phẩm có giá trị nhất như Epitaphe, Le grand testament… 

Tháng 11 năm 1463 Villon lại bị bắt vì bị nghi ăn trộm nhưng sau đó mấy ngày được thả vì không có chứng cứ. Cũng trong thời gian này xảy ra một vụ ẩu đả và một viên chưởng khế bị thương nặng, mặc dù không trực tiếp tham gia nhưng Villon vẫn bị bắt vào tù và bị kết án treo cổ (trong tù Villon viết bài ballade về người bị treo cổ và một số bài thơ tứ tuyệt). Ba ngày sau đó Villon trốn được khỏi tù và tiếp tục phiêu du nhưng từ đây dấu tích không một ai rõ. Biên bản của tòa thị chính thành phố Paris ngày 5 tháng 1 năm 1463 là văn bản cuối cùng về François Villon. 




Ảnh hưởng của François Villon:

- Cuốn thơ trữ tình đầu tiên ở nước Pháp in bằng máy in là cuốn thơ của François Villon.
- François Villon có sự ảnh hưởng đến các nhà thơ nhà văn hậu Trung cổ, đầu Phục hưng và về sau như Clément Marot, François Rabelais rồi đến Jean de La Fontaine, Moliere, Paul Verlaine, Tristan Corbière, Robert Louis Stevenson, Ezra Pound… 

- François Rabelais trong tiểu thuyết La vie très horrifique du grand Gargantua, père de Pantagruel (Chuyện về cuộc đời kinh hoàng của Gargantua vĩ đại, bố của Pantagruel) dẫn hai chi tiết trong cuộc đời của Villon – anh hề ở cung điện của nhà vua Anh và người dựng kịch ở Poitou-Charentes. Khi người ta hỏi nhân vật Panurge rằng gia tài đồ sộ xưa của ông giờ ở đâu thì Panurge trả lời: “Nhưng đâu rồi những bông tuyết ngày xưa? – đấy là vấn đề cốt lõi đã từng hành hạ nhà thơ Villon suốt đời”.
- Robert Louis Stevenson viết tác phẩm A Lodging for the Night: A Story of Francis Villon.
- Nhà văn Edschmid viết tác phẩm Herzogin về Francois Villon. 
- Nhà văn F. Karko viết Le Roman de François Villon – Câu chuyện cay đắng của cuộc đời Francois Villon.
- Nhạc sĩ ca sĩ Georges Brassens phổ nhạc một số bài thơ của François Villon, trong đó có “Ballade des dames du temps jadis” (Bài thơ về những người đẹp ngày xa).
- Nhạc sĩ, ca sĩ Bulat Okudzhava sáng tác bài hát Молитва Франсуа Вийона (The Prayer of Francois Villon – Lời cầu nguyện của François Villon). 
- Nhạc sĩ, ca sĩ Karl Wolf Biermann viết bài ballade về Villon: Ballade auf den Dichter Francois Villon. 
…………………….

Một số tác phẩm:
- Ballade treo cổ (La Ballade des pendus)

- Ballade về những quí tộc ngày xưa (Ballade des Seigneurs du temps jadis)
- Ballade về những chuyện vặt vãnh (Ballade des menus propos)
- Ballade của những nghịch lý (Ballade des contre-vérités)
- Ballade về những người đẹp ngày xa (Ballade des Dames du temps jadis)
- Ballade bằng tiếng Pháp cổ (Ballade en vieil langage françois)
- Ballade tục ngữ ( Ballade des proverbes)
- Ballade đôi (Double ballade)
- Ballade cho bạn gái (Ballade à s'amie)
- Ballade và cầu nguyện (Ballade et oraison)
- Ballade răn dạy ( Ballade de bonne doctrine à ceux de mauvaise vie)
- Ballade bia mộ (Épitaphe)
- Ballade cuối (Ballade finale) 



BÀI THƠ VỀ NHỮNG NGƯỜI ĐẸP NGÀY XA

Hãy nói ta nghe giờ ở nơi nào 
Người đẹp Flora của dân La Mã
Nàng Archipiades, và cả nàng Thaïs nữa
Sắc đẹp tuyệt trần, những tiếng vọng giờ đâu?
Câu trả lời nghe mới lạ lùng sao
Như dội lại từ dòng sông, hồ nước
Những vẻ đẹp nhân từ, không tì vết?
Nhưng đâu rồi những bông tuyết ngày xưa?

Nàng Héloïs uyên bác ấy đâu giờ 
Chàng Pierre Esbaillart ở Saint Denis tội nghiệp
Đã vì nàng mà chịu tu trọn kiếp
Vì yêu mà đau khổ tự ngày thơ.
Và bà hoàng giận dữ ấy đâu giờ 
Người sai bỏ Buridan vào túi
Rồi ném xuống dòng sông Seine nước chảy?
Nhưng đâu rồi những bông tuyết ngày xưa?

Hoàng hậu trắng như hoa huệ làn da
Và giọng hát ngọt ngào như chim hót
Bàn chân to Berthe, Bietris, Alis
Và Haremburgis lãnh chúa xứ Maine
Cô gái Jeanne người vùng Lorraine
Bị quân Anh ở Rouen thiêu sống
Họ giờ đâu, những nữ hoàng trinh trắng?
Nhưng đâu rồi những bông tuyết ngày xưa?

Hoàng tử ơi đừng tra hỏi vẩn vơ
Qui luật của cuộc đời là thế đấy.
Chỉ còn lại điệp khúc này nhắc mãi:
Nhưng đâu rồi những bông tuyết ngày xưa?


Ballade des dames du temps jadis

Dites-moi où, n'en quel pays,
Est Flora la belle Romaine,
Archipiades, ne Thaïs,
Qui fut sa cousine germaine,
Echo, parlant quant bruit on mène
Dessus rivière ou sur étang,
Qui beauté eut trop plus qu'humaine ?
Mais où sont les neiges d'antan ?

Où est la très sage Héloïs,
Pour qui fut châtré et puis moine
Pierre Esbaillart à Saint-Denis ?
Pour son amour eut cette essoine.
Semblablement, où est la roine
Qui commanda que Buridan
Fût jeté en un sac en Seine ?
Mais où sont les neiges d'antan ?

La roine Blanche comme un lis
Qui chantait à voix de sirène,
Berthe au grand pied, Bietrix, Aliz,
Haramburgis qui tint le Maine,
Et Jeanne, la bonne Lorraine
Qu'Anglais brûlèrent à Rouen ;
Où sont-ils, où, Vierge souvraine ?
Mais où sont les neiges d'antan ?

Prince, n'enquerrez de semaine
Où elles sont, ni de cet an,
Que ce refrain ne vous remaine :
Mais où sont les neiges d'antan ?




BÀI THƠ TREO CỔ

Những người anh em, xin hãy rủ lòng thương
Rằng chúng tôi kết thúc con đường trần
Trước anh em để đi vào cõi chết
Cầu Chúa ban cho anh em điều tốt
Chúng tôi bị treo năm, sáu kẻ một lần
Thịt sẽ nát và xương cũng sẽ tan
Để làm mồi cho quạ đen lần lượt
Xin đừng phán xét chúng tôi nghiêm khắc
Đừng nhạo báng gì, hỡi những anh em
Xin cầu Chúa để Ngài rủ lòng thương xót.

Chúng tôi xin anh em đừng quở trách

Rằng tòa xử tội hành hình khắc nghiệt
Bởi một điều anh em cũng biết rằng
Đâu thiện ác, chúng tôi không biết được
Để bây giờ chúng tôi đành có mặt
Trước Con trai của Đức Mẹ thiêng liêng
Để về thiên đường hay là địa ngục
Luật của Ngài sẽ phán xét rõ ràng
Đừng nhạo báng gì, hỡi những anh em
Xin cầu Chúa để Ngài rủ lòng thương xót.

Rồi đây hằng đêm cơn mưa vùi dập

Còn ban ngày thiêu đốt ánh mặt trời
Những con quạ đen mổ vào tròng mắt
Chúng tôi đâu có thể ngủ muôn đời
Nếu sự lặng yên không hề có được
Nếu cơn gió giật phía sau phía trước
Rồi đem ra trình trước mắt con người
Chúng tôi xin anh em đừng quở trách
Đừng đi vào đường cụt của chúng tôi
Xin cầu Chúa để Ngài rủ lòng thương.xót. 

Hỡi Chúa Giêsu – Hỡi Đấng Toàn năng

Xin đừng đưa chúng con vào địa ngục
Cho dù cuộc đời chúng con phạm lỗi lầm
Và xin đừng nhạo báng, hỡi những anh em
Xin cầu Chúa để Ngài rủ lòng thương xót.

Ballade des pendus

Frères humains, qui après nous vivez,
N’ayez les coeurs contre nous endurcis,
Car, si pitié de nous pauvres avez,
Dieu en aura plus tôt de vous mercis.
Vous nous voyez ci attachés, cinq, six :
Quant à la chair, que trop avons nourrie,
Elle est piéça dévorée et pourrie,
Et nous, les os, devenons cendre et poudre.
De notre mal personne ne s’en rie ;
Mais priez Dieu que tous nous veuille absoudre !

Se frères vous clamons, pas n’en devez
Avoir dédain, quoique fûmes occis
Par justice. Toutefois, vous savez
Que tous hommes n’ont pas bon sens rassis.
Excusez-nous, puisque sommes transis,
Envers le fils de la Vierge Marie,
Que sa grâce ne soit pour nous tarie,
Nous préservant de l’infernale foudre.
Nous sommes morts, âme ne nous harie,
Mais priez Dieu que tous nous veuille absoudre !

La pluie nous a débués et lavés,
Et le soleil desséchés et noircis.
Pies, corbeaux nous ont les yeux cavés,
Et arraché la barbe et les sourcils.
Jamais nul temps nous ne sommes assis
Puis çà, puis là, comme le vent varie,
A son plaisir sans cesser nous charrie,
Plus becquetés d’oiseaux que dés à coudre.
Ne soyez donc de notre confrérie ;
Mais priez Dieu que tous nous veuille absoudre !

Prince Jésus, qui sur tous a maistrie,
Garde qu’Enfer n’ait de nous seigneurie :
A lui n’ayons que faire ne que soudre.
Hommes, ici n’a point de moquerie ;
Mais priez Dieu que tous nous veuille absoudre !



BÀI THƠ VỀ NHỮNG QUÍ TỘC NGÀY XƯA

Đâu rồi Calixtô, vị giáo hoàng
Đời thứ ba từng được trao vương miện
Người trị vì bốn năm trong tòa thánh
Đâu rồi Công tước của xứ Buốc-bông
Đâu rồi Alphonse của xứ Aragông
Và cả Arthur của vùng Breton nữa
Đâu rồi vua Charles đời thứ bảy?
Đâu rồi Cáclô đại đế vinh quang?

Đâu rồi vua của xứ Xcốtlen

Người có vết sẹo hồng trên gương mặt
Màu này giống như là đá thạch anh
Chạy suốt từ trán cho tới tận cằm? 
Đâu rồi ông vua lừng danh đảo Síp
Than ôi! Vua Tây Ban Nha chân tình 
Rất tiếc là tên không còn nhớ được?
Đâu rồi Cáclô đại đế vinh quang?

Chỉ còn một điều tôi biết được rằng

Mọi thứ trên đời qua như giấc ngủ
Và mọi phía cái chết đang vây lấy
Có ai người thoát được tử thần không?
Thử nhìn qua nhìn lại những cái tên:
Lancelot đâu rồi? Lancelot không còn
Người ta chôn ông rồi, ông đã chết
Đâu rồi Cáclô đại đế vinh quang?

LỜI GỬI 
Đâu rồi Claquin người từ vùng Betran?
Đâu rồi Bá tước vùng Auvergne nhiệt thành
Và Công tước của thành Alençon dũng cảm?
Đâu rồi Cáclô đại đế vinh quang?
__________
1-Calixtô III – Giáo hoàng La Mã từ 1455 đến 1458. 
2-Công tước của xứ Buốc-bông – tức Charles I de Bourbon (1401 – 1456) 
3-Alphonse của xứ Aragông – tức Alphonse V d'Aragon (1396 – 1458), vua Aragon.
4- Arthur của vùng Breton – tức Arthur III de Bretagne (1393 – 1458), công tước của vùng Bretagne. 
5- Vua Charles đời thứ bảy – tức vua Charles VII của Pháp (1403 – 1461). 
6- Cáclô đại đế – tiếng Latinh: Carolus Magnus, tiếng Đức: Karl der Große, tiếng Pháp: Charlemagne (747 – 814), vua của người Frank, sau trở thành Hoàng đế đầu tiên của Đức. 
7- Vua của xứ Xcốtlen – tức vua James II (1430 – 1460). 
8- Ông vua lừng danh đảo Síp – tức Jean II de Chypre (1418 – 1458). 
9- Vua Tây Ban Nha – tức Juan II de Castilla (1405 – 1454). 
10-Lancelot – tức Ladislav Pohrobek (1440 – 1457), vua Bohemia. 
11- Claquin người từ vùng Betran – tức Bertrand du Guesclin (1320 – 1380), vị tướng xuất sắc của Chiến tranh trăm năm (Guerre de Cent Ans). 
12-Bá tước vùng Auvergne – đây có thể là Béraud III (1380 – 1426). 
13- Công tước của thành Alençon – đây có thể là Jean Ier d'Alençon (1385 – 1415).

Ballade des Seigneurs du temps jadis

Qui plus ? Où est le tiers Calixte,
Dernier decedé de ce nom,
Qui quatre ans tint le Papaliste ?
Alphonse, le roy d’Aragon,
Le gracieux duc de Bourbon,
Et Artus, le duc de Bretaigne,
Et Charles septiesme, le Bon ?…
Mais où est le preux Charlemaigne !

Semblablement, le roy Scotiste,
Qui demy-face eut, ce dit-on,
Vermeille comme une amathiste
Depuys le front jusqu’au menton ?
Le roy de Chypre, de renom ;
Helas ! et le bon roy d’Espaigne,
Duquel je ne sçay pas le nom ?…
Mais où est le preux Charlemaigne !

D’en plus parler je me desiste ;
Ce n’est que toute abusion.
Il n’est qui contre mort resiste,
Ne qui treuve provision.
Encor fais une question :
Lancelot, le roy de Behaigne,
Où est-il ? Où est son tayon ?…
Mais où est le preux Charlemaigne !

ENVOI
Où est Claquin, le bon Breton ?
Où le comte Daulphin d’Auvergne,
Et le bon feu duc d’Alençon ?…
Mais où est le preux Charlemaigne !



 BÀI THƠ VỀ NHỮNG CHUYỆN VẶT VÃNH


Tôi biết ruồi đen qua màu sữa trắng
Tôi biết người ta qua mặc áo quần
Tôi biết tiết trời đẹp hay là chẳng
Tôi biết ra cây qua trái của chúng
Tôi biết ai làm việc ai ngồi không
Tôi biết thường mưa giữa trời tháng năm
Tôi biết cuộc đời này là điên loạn
Tôi biết tất cả, chỉ không biết mình.

Tôi biết người mặc vải hay tơ lụa

Tôi biết tu sĩ từ chiếc áo choàng
Tôi biết người chủ từ người phục vụ
Tôi biết nữ tu qua tấm khăn voan
Tôi biết kẻ lừa đảo qua từ ngữ
Tôi biết phụ nữ thì thích dùng kem
Tôi biết ai giang hồ, ai trinh nữ
Tôi biết tất cả, chỉ không biết mình.

Tôi biết con ngựa, tôi biết con la

Biết con nào khỏe hơn, con nào nhọc
Tôi biết Belet, biết Biatris
Biết tiếng ngân vang của những đồng tiền
Biết mộng dễ thương hơn là ảo ảnh
Tôi biết lỗi lầm của người Bôhêm
Tôi biết thành Rôm chính là sức mạnh
Tôi biết tất cả, chỉ không biết mình. 

Hoàng tử ơi, dù chậm hoặc dù nhanh

Tôi biết tử thần sẽ tìm thấy bạn
Tôi biết, nhưng mà tôi nhắc lại vẫn
Tôi biết tất cả, chỉ không biết mình.

Ballade des menus propos

Je connois bien mouches en lait,
Je connois à la robe l'homme,
Je connois le beau temps du laid,
Je connois au pommier la pomme,
Je connois l'arbre à voir la gomme,
Je connois quand tout est de mêmes,
Je connois qui besogne ou chomme,
Je connois tout, fors que moi-mêmes.

Je connois pourpoint au collet,
Je connois le moine à la gonne,
Je connois le maître au valet,
Je connois au voile la nonne,
Je connois quand pipeur jargonne,
Je connois fous nourris de crèmes,
Je connois le vin à la tonne,
Je connois tout, fors que moi-mêmes.

Je connois cheval et mulet,
Je connois leur charge et leur somme,
Je connois Biatris et Belet,
Je connois jet qui nombre et somme,
Je connois vision et somme,
Je connois la faute des Boemes,
Je connois le pouvoir de Rome,
Je connois tout, fors que moi-mêmes.

Prince, je connois tout en somme,
Je connois coulourés et blêmes,
Je connois mort qui tout consomme,
Je connois tout, fors que moi-mêmes.



BÀI THƠ CỦA NHỮNG NGHỊCH LÝ


Không có món ngon nào hơn cỏ tranh
Không có xu nịnh cần chi chân thành
Không có hạnh phúc, nếu không bất hạnh
Không có hèn nhát cần chi dũng cảm
Không có hiệp sĩ tốt hơn con buôn
Không có mận chín ngon hơn mận xanh
Không có chồng trung thành hơn góa phụ
Không ai khôn ngoan hơn những người tình. 

Không có tình bạn mạnh hơn thù hằn

Không có nhà tranh nghèo hơn cung điện
Không có sang trọng nào hơn khi cần
Không có bủn xỉn lấy đâu hào phóng
Không có bóng tối lấy đâu ánh sáng
Không có vũ khí nếu không chiến tranh
Không có lời mạnh hơn là im lặng
Không ai khôn ngoan hơn những người tình. 

Phải đi từ từ nếu muốn đi nhanh

Không có đường thẳng thẳng hơn đường vòng
Không có bạc vàng quí hơn sỏi đá
Không có khuôn mặt thật hơn mặt nạ
Không có người ngủ, đâu cần người canh
Không có người ngu ngu hơn người nghĩ
Không có biển nào sâu hơn hồ nhỏ
Không ai khôn ngoan hơn những người tình. 

Và xin nói trong những lời cuối cùng:

Hãy đi tìm niềm vui trong hoạn nạn
Điều dối gian chân thành hơn lời nguyện
Chơi càng hăng máu khi chẳng có tiền
Chỉ người chết mới cần cho lành bệnh
Không ai khôn ngoan hơn những người tình.

Ballade des contre-vérités

Il n'est soin que quand on a faim
Ne service que d'ennemi,
Ne mâcher qu'un botel de fain,
Ne fort guet que d'homme endormi,
Ne clémence que félonie,
N'assurance que de peureux,
Ne foi que d'homme qui renie,
Ne bien conseillé qu'amoureux.

Il n'est engendrement qu'en boin
Ne bon bruit que d'homme banni,
Ne ris qu'après un coup de poing,
Ne lotz que dettes mettre en ni,
Ne vraie amour qu'en flatterie,
N'encontre que de malheureux,
Ne vrai rapport que menterie,
Ne bien conseillé qu'amoureux.

Ne tel repos que vivre en soin,
N'honneur porter que dire : " Fi ! ",
Ne soi vanter que de faux coin,
Ne santé que d'homme bouffi,
Ne haut vouloir que couardie,
Ne conseil que de furieux,
Ne douceur qu'en femme étourdie,
Ne bien conseillé qu'amoureux.

Voulez-vous que verté vous dire ?
Il n'est jouer qu'en maladie,
Lettre vraie qu'en tragédie,
Lâche homme que chevalereux,
Orrible son que mélodie,
Ne bien conseillé qu'amoureux.


THƠ MỘ CHÍ


Đang ngủ say nơi này trên đất lạnh
Kẻ bị thần tình yêu bắn mũi tên
Kẻ bất hạnh, cậu học trò bé bỏng
Có tên gọi là François Villon.

Ông để lại cho bạn bè của mình

Tất cả những gì mà ông có được
Những ai từng yêu, dù chỉ một lần
Trên mồ ông, những dòng này hãy đọc: 

Épitaphe et rondeau

Ci gît et dort en ce solier,
Qu'amour occit de son raillon,
Un pauvre petit écolier
Qui fut nommé François Villon.
Oncques de terre n'eut sillon.
Il donna tout, chacun le sait :
Table, tréteaux, pain, corbillon.
Pour Dieu, dites-en ce verset :



BÀI THƠ BỐN CÂU


Tôi là François – sắp bị tử hình

Tôi sinh ở Paris, gần Pontoise
Rồi đây cái cổ của tôi sẽ biết
Mông của tôi sẽ cân nặng mấy cân.
_____________
*Đây là bài thơ 4 câu viết ngay sau lúc nhận án bị treo cổ. Villon đau buồn rằng ông là người Pháp (François), bởi vì giá như ông không sinh ra ở Paris, hoặc thị trấn Pontoise gần thủ đô, thì sẽ không bị tòa án của Paris kết tội mà sẽ được trả tự do như những người Breton hoặc Burgundian nào đó. 

Quatrain

Je suis François, dont il me poise, 
Né de Paris emprés Pontoise, 
Et de la corde d'une toise 
Saura mon col que mon cul poise.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét