Thứ Bảy, 21 tháng 1, 2017

Thơ Guillaume Apollinaire


Guillaume Apollinaire (tên thật bằng tiếng Ba Lan: Wilhelm Albert Vladimir Apollinaris de Wąż-Kostrowitcki, 26 tháng 8 năm 1880 – 9 tháng 11 năm 1918) – nhà thơ Pháp gốc Ba Lan, một trong những nhà thơ lớn của Pháp đầu thế kỉ XX.

Tiểu sử:
Wilhelm Albert Vladimir Apollinaris Kostrowitzky sinh ở Roma, Ý. Mẹ là Angelica Kostrowicka, một phụ nữ quí tộc đã sa sút chạy sang Ý sau cuộc bạo loạn 1863 – 1864 ở Ba Lan, bố không rõ. Năm 1887 Wilhelm Kostrowitzky cùng mẹ và em trai chuyển về Monaco. Học ở Monaco, Cannes. Từ năm 1899 chuyển về sống ở Paris, làm thơ, viết báo và trở thành nhà thơ nổi tiếng với bút danh Guillaume Apollinaire – là cách gọi bằng tiếng Pháp của hai tên Ba Lan Wilhelm và Apollinaris. 

Tháng 9 năm 1911 Guillaume Apollinaire bị bắt vào tù vì ông bị nghi tham gia vào vụ ăn cắp bức họa Mona Lisa nổi tiếng ở bảo tàng Luvre, một năm sau được trả tự do vì không tìm ra chứng cứ. Năm 1912 ông cùng bạn bè thành lập tạp chí “Chiều Paris” và làm chủ bút từ năm 1913. Cũng trong năm này in bài thơ nổi tiếng nhất của ông: Cầu Mirabeau (Le Pont Mirabeau) và trường ca Zone, đưa Guillaume Apollinaire lên vị trí số một trong các nhà thơ đương thời. Năm 1913 in tập thơ Rượu (Alcools), năm 1914 in một số bài thơ viết theo kiểu tạo hình (Calligrammes).

Khi chiến tranh thế giới I nổ ra, Guillaume Apollinaire tình nguyện ra trận với mong muốn được giải phóng Ba Lan nhưng bị thương nặng, trong thời gian này ông viết nhiều bài thơ về chiến tranh. Tháng 3 năm 1916 Guillaume Apollinaire được nhập quốc tịch Pháp và trở lại Paris tiếp tục sáng tác. Guillaume Apollinaire mất ở Paris vào năm ông 38 tuổi.

Tác phẩm:
*Les exploits d’un jeune Don Juan, 1907
*Les onze mille verges, 1907
*L'enchanteur pourrissant, 1909
*L'Hérèsiarque et Cie, 1910
*Le Théâtre Italien, 1910
*Le bestiaire ou le cortège d’Orphée, 1911
*Alcools, 1913
*Les peintres cubistes, 1913
*La Fin de Babylone, 1914
*Case d'Armons, 1915
*Le poète assassiné, 1916
*Les mamelles de Tirésias, 1917
*L'esprit nouveau et les poètes, 1918
*Calligrammes, 1918
*Le Flâneur des Deux Rives, 1918
*La femme assise, 1920
*Le guetteur mélancolique

Các tuyển tập:
*Oeuvres роétiques. P., 1956
*Oeuvres completes, t. 1-4, P., 1965—1966
*Oeuvres en prose complètes. Vol.1-2. Paris: Gallimard, 1991 (Bibliothèque de la Pléiade)



LỜI VĨNH BIỆT
(L'adieu)

Anh đưa tay ngắt chùm hoa thạch thảo
Tự nhủ lòng thu đã chết rồi em
Hai đứa ta không gặp nữa trên trần
Nhưng mùi hương thời gian chùm thạch thảo
Nhắc anh chờ em đó, nhớ đừng quên. 





Trích từ “Đời dâng cho Tình yêu” (Vitam Impendere Amori)
Tập thơ này có 6 bài, chúng tôi dịch bài 1 và 3. 

1*** 
Tình yêu đã chết trên bàn tay em
Em còn nhớ chăng những đêm gặp gỡ?
Hãy hồi sinh nó, để quay lại nữa
Em lại bước ra gặp gỡ với tình.

Và cuối cùng rồi cũng hết mùa xuân
Đã từng dịu dàng với anh như thế
Thôi, từ giã với mùa xuân, là để
Em quay về, lại như thế, dịu dàng.


3*** 
Em không mở ra được điều bí mật
Con tàu thời gian đang tiến lại gần
Để hai ta giờ bỗng nhiên thấy tiếc
Rằng anh và em đã chẳng chung đường.

Hoa hồng nổi bồng bềnh trên mặt nước
Lướt qua mau mặt nạ của đám đông
Rồi rung trong anh như một cây chuông
Là bí mật mà em không mở được. 



CẦU MIRABEAU
(Le Pont Mirabeau)

Dưới cầu Mirabeau êm đềm trôi dòng Seine
Trôi cả tình yêu của anh và em
Không biết anh có còn nên nhớ
Niềm vui sẽ đến theo sau nỗi ưu phiền.

Giờ cứ điểm, đêm cứ đến gần
Tháng ngày trôi, đây vẫn còn anh.

Mặt đối mặt và tay trong tay nhau
Vòng tay ta như cầu
Dưới cầu dòng nước chảy
ánh mắt rã rời vì li biệt dài lâu.

Giờ cứ điểm, đêm cứ đến gần
Tháng ngày trôi, đây vẫn còn anh.

Tình ra đi như dòng nước trôi nhanh
Tình yêu của em và anh
Cuộc đời ơi, sao mà chậm rãi
Hy vọng sao mà dữ dội cuồng điên.

Giờ cứ điểm, đêm cứ đến gần
Tháng ngày trôi, đây vẫn còn anh.

Vẫn trôi đều ngày tuần, tháng năm
Quá khứ và tình yêu quay trở lại không còn
Chỉ một điều không bao giờ thay đổi
Dưới cầu Mirabeau êm đềm trôi dòng Seine.

Giờ cứ điểm, đêm cứ đến gần
Tháng ngày trôi, đây vẫn còn anh.




BÀI THƠ TẶNG LINDA
(Les dicts d’amour à Linda)

Cái tên nghe rất tôn giáo của em
Hơi kiêu kì - và đó là bản chất
Cái tên em bí ẩn không giấu được
Tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là “xinh”.

Còn tiếng Đức có nghĩa là “dịu hiền”
Như tháng Tư giữa trời đêm trong gió
Cây gia thần tiên hát ca, nghiêng ngả
Trong tiếng xạc xào hương toả mùi đêm.

Tên của em đẹp hơn mọi cái tên!
Thời Hy Lạp cổ, đó là “thành phố”
Rất phồn thịnh, như thiên đàng, một thuở
Giữa những hoa hồng trên đảo Rhodes hát lên.
____________

*Bài thơ đi phân tích ý nghĩa tên của cô gái Linda. Từ “Lindo” bằng tiếng Tây Ban Nha nghĩa là đẹp, xinh. Bằng tiếng Đức (Die Linde – cây gia, cây đoạn; lind – dịu hiền, thuỳ mị). ở khổ thứ 3 nhắc đến tên gọi một thành phố Hy Lạp cổ đại – Lindos, nằm ở bờ phía đông đảo Rhodes.



LINDA

(L’ombre de la très douce est évoquée ici)

Là chiếc bóng rất nhẹ nhàng mà bạn sẽ bay

In vào trong giai điệu ngọt ngào mà bạn sẽ chơi
Nocturme – là dạ khúc, khiến con tim nức nở
Dù tiếng tắt rồi, những ngón tay còn lướt nhẹ 
An ủi đàn piano như người nước mắt đầy vơi. 


MÙA THU

(Automne)

Một người nông phu đi giữa màn sương

Dắt con bò giữa sương thu dày đặc
Đang giấu đi vẻ nghèo khó của làng. 

Người vừa đi vừa cất tiếng hát vang

Người hát rằng yêu nhau rồi phụ bạc
Và nhẫn thề và tan nát con tim.

Ôi mùa thu, mùa hè đã không còn

Giữa màn sương vật vờ hai bóng xám.


EM RA ĐI

(Lorsque vous partirez, je ne vous dirai rien)

Em ra đi – thôi còn gì để nói

Sau mùa hè là sẽ tới mùa thu
Rồi đây bên cửa nhà em anh sẽ tới
Như con chó trung thành chờ đợi và tru
Em ra đi – thôi còn gì để nói.

Nhắc về em sẽ làm anh run rẩy

Mặc dù anh không phải thợ kim hoàn
Nhưng tay chân, hàm răng em giống với
Những đồ trang sức quí giá bằng vàng
Nhắc về em sẽ làm anh run rẩy. 

Rồi đây giữa đêm không có ánh trăng

Anh vẫn thấy mái tóc em vàng óng
Em ra đi nhưng mà anh cảm nhận
Tinh cầu của anh vẫn sáng hàng đêm
Rồi đây giữa đêm không có ánh trăng. 

Và mùa thu với tiếng lá thì thầm

Gợi cho anh tiếng xạc xào áo váy
Anh cảm nhận một vẻ gần quá đỗi
Của chiếc lá vàng cùng với mùi hương
Giữa mùa thu với tiếng lá thì thầm. 

Em thân yêu, rồi đây chẳng còn em

Chiếc lá vàng sẽ nhắc về em đấy
Nhưng mà rồi đây em sẽ quên anh
Chẳng còn nhớ những đêm cùng điệu nhảy
Chẳng còn gì khi em đã xa anh. 




Thơ về các loài thú hay là đám rước của Orpheus 

(Le Bestiaire ou Cortège d'Orphée)

1-ORPHEUS


Còn gì mạnh hơn còn gì sâu hơn

Và còn gì cao thượng hơn những dòng
Đây là giọng nói nghe từ ánh sáng
Như Trismegistus nói trong Pimandre của ông.
_______________
*Tập thơ về các loài thú hay là đám diễu hành của Orpheus (Le Bestiaire ou Cortège d'Orphée) là tập thơ gồm 30 bài thơ ngắn của Guillaume Apollinaire với các bản khắc gỗ của Raoul Dufy, xuất bản năm 1911. Chúng tôi dịch đầy đủ tập thơ này. 
*Orpheus là  nhân vật trong Thần thoại Hy Lạp, cha đẻ của thi ca, người sáng tạo ra chiếc đàn lia.
*Tập thơ này được tác giả chú thích nhưng rất dài dòng, chúng tôi chỉ trích những chỗ thấy cần thiết cho bạn đọc Việt và cố gắng chú thích ngắn gọn. Tên riêng không hoàn toàn để theo tiếng Pháp, mà nhiều chỗ để theo tiếng Anh để tiện hơn cho việc hiểu cũng như tìm kiếm, tra cứu.
*Hermes Trismegistus là tên một vị thần, tác giả của nhiều tác phẩm, trong đó có Pimandre (tiếng Pháp) hoặc Poimandres (tiếng Anh). 

2-CON RÙA


Ta từ xứ sở Thrace thần thoại

Những ngón tay thành thạo gảy đàn lia
Loài muông thú cũng đến không sợ hãi 
Lắng tay nghe – ngay cả những con rùa. 



3-CON NGỰA


Ta muốn kiềm chế mi! Và ta thường mơ

Ngày cỗ xe khải hoàn vàng lên tiếng
Nhưng thơ của ta nghe theo số phận
Như dây cương điều chỉnh mọi bài thơ. 
_____________
* Ta muốn kiềm chế mi – người đầu tiên cưỡi ngựa thần Pegase là Bellerophon, khi ông ra trận chiến đấu với quái vật. Thời buổi này quái vật cũng không hề ít, nhưng để chiến đấu với những kẻ thù ghét thơ ca thì phải kiềm chế, thậm chí phải giấu ngựa thần Pegase. Đấy là điều mà tôi muốn nói (chú thích của Guillaume Apollinaire).   

4-CON DÊ TÂY TẠNG

Lông dê này hay cừu vàng, bạn ơi

Thứ làm Jason chịu bao vất vả
Nhưng tôi thấy chúng đâu còn giá trị
Bằng tóc người yêu tôi có trong tay. 
_____________
*Jason là anh hùng trong thần thoại Hy Lạp, thủ lĩnh của những người trong cuộc tìm kiếm bộ lông cừa vàng. 

5-CON RẮN


Mi không hề quí sắc đẹp người ta

Có trên đời biết bao nhiêu người đẹp
Trở thành nạn nhân của mi ác độc
Eva, Eurydice, Cleopatra*.. 
Ta còn có thể thêm nhiều người khác. 
______________
*Trong ba người phụ nữ mà Guillaume Apollinaire nêu trên, ta biết rằng Eva bị con rắn dụ dỗ ăn trái cấm và bị đuổi khỏi thiên đàng, Cleopatra cho rắn độc cắn để tự tử, còn Eurydice (vợ của Orpheus) thì khi chạy trốn khỏi thần Aristaeus, đạp phải một tổ rắn và bị cắn chết. 

6-CON MÈO


Tôi muốn có trong nhà của mình:

Một người phụ nữ đẹp, thông minh
Một con mèo giữa bao nhiêu cuốn sách
Và những người bạn ghé quanh năm
Mà nếu thiếu thì tôi không sống được.



7-CON SƯ TỬ


Ôi sư tử, thấy tội nghiệp làm sao

Chúa sơn lâm mà giờ đây ngoan ngoãn
Ở Hamburg, nước Đức người giam bạn
Trong lồng sắt, bao quanh những hàng rào. 

8-CON THỎ RỪNG


Thỏ và người yêu sợ hai thứ trên đời

Đó là nỗi đam mê và sợ hãi
Đừng quan tâm, nhưng noi gương thỏ cái
Học điều này để sáng tạo mà thôi. 
________
*Thỏ cái nổi tiếng là loài mắn đẻ. 

9-CON THỎ NHÀ 


Tôi biết loài thỏ rất sinh động

Chạy trốn khỏi tôi rất vội vàng
Thỏ này sống ở trong thung lũng
Giữa có hoa, trong xứ sở Dịu dàng.

10- CON LẠC ĐÀ 


Hoàng tử Don Pedro* cất bước đường xa

Với bốn lạc đà chàng đi chu du
Khắp châu Âu và vô cùng thán phục. 
Điều này thì tôi dễ dàng làm được
Nếu như tôi có tới bốn lạc đà. 
______________
*Đây là Pierre de Portugal (1392-1449) – tiếng Pháp;  Peter, Duke of Coimbra – tiếng Anh, là hoàng tử Bồ Đào Nha. Từ năm 1418 đến năm 1428 ông đi chu du hầu như khắp cả châu Âu và bắc Phi.  

11- CON CHUỘT


Ngày vui đi qua, ngày buồn tới

Chuột thời gian gặm nhấm đời tôi
Tôi đã sống đời hai tám tuổi
Sao nhiều đau khổ vậy, Chúa ơi!

12- CON VOI


Những lời của tôi từ cửa miệng

Chúng giống như những chiếc ngà voi
Màu đỏ chết!... Vinh quang nặng gánh
Chỉ mong chuộc lại được bằng lời.



13- ORPHEUS


Hãy nhìn xem kìa cả ngàn đôi chân

Và hãy nhìn xem cả trăm con mắt
Loài luân trùng, loài bọ ve, bọ chét
Chúng tuyệt vời hơn cả bảy kỳ quan
Trên mặt đất, và còn tuyệt vời hơn
Cung điện Rosemonde từ câu hát.*
_____________
*Cung điện Rosemonde từ câu hát – cung điện này được nói đến trong một bài hát dân ca buồn, tác giả của nó, tất nhiên là tôi không biết, bài dân ca này kể về một tình yêu bất hạnh của một nhà vua  Anh. Dưới đây là một đoạn trong bài hát đó:

Hoàng hậu cảm thấy rằng không yên ổn

Với vua Rosemonde, để tránh điều này
Khỏi tai họa, nhà vua đã cho xây
Một cung điện, đời chưa từng biết đến.
*
Pour mettre Rosemonde à l'abri de la haine
Que lui portait la reine,
Le roi fit construire un palais
Tel qu'on n'en vit jamais.
(chú thích của Guillaume Apollinaire).  

14- CON SÂU BƯỚM


Công việc dẫn đến sự giàu sang

Nhà thơ hãy làm việc không ngừng
Hãy xem sâu bướm bao khó nhọc
Để trở thành con bướm vinh quang.

15- CON RUỒI*


Những con ruồi của chúng ta cũng biết

Nghe bài ca học được ở Na Uy
Những con ruồi bùa phép, mê hoặc kia
Chính chúng là những vị thần của tuyết.
______________
*Những con ruồi… – Đây không phải là về những bông tuyết mà là những con ruồi được các phù thủy Phần Lan và Sápmi thuần phục. Những phù thủy truyền những con ruồi từ thế hệ này sang thế hệ khác và giữ chúng trong một chiếc hòm đặc biệt, nơi không ai nhìn thấy nhưng chúng sẵn sàng bay ra thành bầy để quấy rối những tên trộm, chúng kêu lên những lời ma thuật, đây là những con ruồi bất tử (chú thích của Guillaume Apollinaire).  

16- CON BỌ CHÉT


Bạn, người yêu, có biết rằng bọ chét

Yêu thương ta. Thật nghiệt ngã vô cùng!
Máu của ta đều dâng cho chúng hết
Bất hạnh thay cho những kẻ yêu đương. 
______________
*Ý bài thơ này có thể so với bài thơ Con bọ chét (The Flea) của John Donne đã có bản tiếng Việt. 


17- CON CHÂU CHẤU


Loài châu chấu đã từng 

Đồ ăn cho Thánh Giăng*
Thơ cũng nên như thế
Bữa tiệc của người mong.  
_______
*Đồ ăn của Thánh Giăng (Giăng mặc áo lông lạc đà, buộc dây lưng da ngang hông; ăn những châu chấu và mật ong rừng – Tân Ước_Mác 1: 6). 



18- ORPHEUS 


Hãy để trái tim là trời, nước, con mồi

Quan trọng gì nước sông hay nước biển
Cả hương vị, hình thức đều bình đẳng
Cá thần là GIÊSU, Đấng cứu độ của tôi? 
________
*Cá thần là Giêsu – xuất phát từ chữ Ichthys (tiếng Hy Lạp: ἰχθύς), là biểu tượng gồm hai hình cung bắt chéo vào nhau, phần đuôi bên phải kéo dài giống như đuôi cá. Đây là biểu tượng của Chúa Giêsu trong thời sơ khởi và là chữ viết tắt của cụm từ “Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ”. 

19- CON CÁ HEO


Cá heo đùa chơi – nhưng mà nước biển

Luôn đắng cay và đầy vẻ mặn mòi
Niềm vui ơi, liệu tôi còn biết đến?
Khi cuộc đời luôn nghiệt ngã với tôi.

20- CON BẠCH TUỘC


Ném mực của mình về phía bầu trời

Và hút máu những gì mình yêu thích
Tìm kiếm những gì ngon. Bạn có biết?
Quái vật vô nhân này – chính là tôi.

21- CON SỨA


Ôi sứa, những cái đầu tội nghiệp

Những mái tóc tím ngát
Các ngươi chờ bão giông
Ta cũng mong bão táp. 

22- CON TÔM


Sự lưỡng lự, ôi niềm vui của tôi

Tôi và em, như tôm, mình cất bước
Cứ tưởng rằng ta đi về phía trước
Lại hóa ra mình đang bước giật lùi.

23- CON CÁ CHÉP


Ở trong hồ, trong ao

Cá chép sống thật lâu!
Có vẻ như thần chết
Quên loài cá u sầu.

24- ORPHEUS 


Tiếng hát ngọt ngào của chim bồng chanh

Của thần ái tình, tiên chim cũng vậy
Dù ngân vang nhưng nguy hiểm vô cùng
Những bài hát chết người, vô nhân đạo*
Xin đừng nghe những bài ca của họ
Nhưng hãy nghe thiên sứ ở thiên đường.
______________
*Những người đi biển khi nghe tiếng hót của chim bồng chanh (chim bói cá) là chuẩn bị cho cái chết, ngoại trừ giữa tháng 12, khi loài chim này làm tổ, người ta cho rằng đấy là thời kỳ biển lặng. Còn thần ái tình và tiên chim là những sinh vật có cánh, hát hay đến nỗi những ai nghe được đều sẵn sàng đánh đổi cuộc đời mình vì tiếng hát (chú thích của Guillaume Apollinaire).  

25- TIÊN CHIM


Hỡi tiên chim, nỗi buồn ở đâu ra

Khi tiếng khóc dịu dàng trong đêm vắng?
Ta cũng giống như màn đêm trên biển
Con tàu ta đang gọi tháng năm về. 

26- CON BỒ CÂU


Hỡi bồ câu, tình yêu và thánh linh

Đức chúa Giêsu sinh ra từ đó
Tôi cũng yêu Maria* – với nàng
Hãy cho chúng tôi nên duyên chồng vợ.
_____________
*Marie Laurencin (1883 – 1956) – nữ họa sĩ Pháp, người yêu dấu của Guillaume Apollinaire trong 5 năm. 

27- CON CÔNG 


Khi đuôi thả xuống trông đã tuyệt

Còn khi công múa đẹp làm sao
Nhưng vẻ đẹp này là phía trước
Trong khi lại hở phía đằng sau.



28- CON CÚ


Trái tim buồn trong ngực như con cú

Bị đóng đinh khắp mọi phía rã rời
Máu và đam mê sẽ không còn nữa
Những ai yêu tôi, tôi đã khen người.

29- CON CÒ QUĂM


Tôi sẽ đi thơ thẩn trong màn sương

Xuống thế giới ngầm chỉ còn chết chóc!
Con cò quăm ở Latinh đã chết
Loài chim này là chim của sông Nin.

30- CON BÒ


Đây là Minh thần* nói lời khen ngợi

Chốn Thiên cung, nơi có các thiên thần
Là nơi chúng ta sau này sẽ tới
Khi Đức Chúa Trời cho phép ta lên. 
_____________

*Minh thần (Cherubin) – là con bò có cánh nhưng không phải là quái vật (chú thích của Guillaume Apollinaire). 


20 NHÀ THƠ PHÁP



Thơ Louis Aragon


Louis Aragon (3 tháng 10 năm 1897 – 24 tháng 12 năm 1982) – nhà thơ, nhà văn, nhà chính trị Pháp, thành viên của Viện hàn lâm Goncourt.

Tiểu sử:
Louis Aragon sinh ở Paris, là con ngoài giá thú của Marguerite và Andrieux. Học Đại học Y ở Paris. Sau này, Aragon chọn bút danh cho mình lấy tên của một vùng đất lịch sử ở Tây Ban Nha. Thời trẻ Aragon gần gũi với các nhóm Dada và Surrealism. Năm 1927 gia nhập Đảng Cộng sản Pháp và tích cực tham gia các hoạt động báo chí. Năm 1932 cùng đoàn các nhà văn Quốc tế đến thăm vùng Ural của Liên Xô. Ấn tượng của chuyến đi này được Aragon thể hiện trong tập thơ Hourra l'Oural, (Hoan hô Ural, 1934). Vợ của Aragon là Elsa Triolet, một cô gái Liên Xô gốc Do Thái. Elsa Triolet là chị gái của Lilya Brich, vợ của nhà thơ Nga nổi tiếng Vladimir Mayakovsky, bản thân Elsa Triolet cũng là một nhà văn nổi tiếng.

Thời kỳ Thế chiến II, Aragon tham gia phong trào Kháng chiến, là nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào này. Các tập thơ Le Crève-Cœur, (Dao trong tim, 1941); Les Yeux d'Elsa, (Đôi mắt Elsa, 1942); thể hiện lòng yêu nước và sự quay về với những đề tài tình yêu cổ điển. Ngoài thơ ca, Aragon còn là một nhà văn nổi tiếng với nhiều tác phẩm có giá trị về những vấn đề của văn học hiện đại. Louis Aragon mất ở Paris năm 1982.

Tác phẩm:


Văn xuôi:
*Anicet ou le Panorama, 1921
*Les Aventures de Télémaque, 1922
*Le Libertinage, 1924
*Le Paysan de Paris, 1926
*Le Con d’Irène, 1927 (sous le nom d’Albert de Routisie)
*Les Cloches de Bâle, 1934 («Le Monde réel»)
*Les Beaux Quartiers, 1936 («Le Monde réel»), Prix Renaudot
*Les Voyageurs de l’Impériale, 1942 («Le Monde réel»)
*Aurélien, 1944 («Le Monde réel»)
*Servitude et Grandeur des Français. Scènes des années terribles, 1945
*Les Communistes (6 volumes), 1949—1951 et 1966—1967 («Le Monde réel»)
*La Semaine Sainte, 1958
*La Mise à mort, 1965
*Blanche ou l’oubli, 1967
*Henri Matisse, roman, 1971
*Théâtre/Roman, 1974
*Le Mentir-vrai, 1980
*La Défense de l’infini, 1986
*Les Aventures de Jean-Foutre La Bite, 1986

Thơ:
*Le Musée Grévin, publié sous le pseudonyme de François la Colère
*La rose et le réséda
*Feu de joie, 1919
*Le Mouvement perpétuel, 1926
*La Grande Gaîté, 1929
*Persécuté persécuteur, 1930—1931
*Hourra l’Oural, 1934
*Le Crève-Cœur, 1941
*Cantique à Elsa, 1942
*Les Yeux d’Elsa, 1942
*Brocéliande, 1942
*Le Musée Grevin, 1943
*La Diane Française, 1945
*En étrange pays dans mon pays lui-même, 1945
*Le Nouveau Crève-Cœur, 1948
*Le Roman inachevé, 1956
*Elsa, 1959
*Les Poètes, 1960
*Le Fou d’Elsa, 1963
*Il ne m’est Paris que d’Elsa, 1964
*Les Chambres, poème du temps qui ne passe pas, 1969



TÌNH HẠNH PHÚC KHÔNG HỀ CÓ

Con người chẳng có quyền gì. Không ở trong sức mạnh
Không ở trong tim, trong sự yếu đuối của mình
Khi giang rộng vòng tay – thì tai họa đứng sau lưng
Xiết chặt vào lòng – là giết mình mãi mãi
Sự hành hạ con người đôi cánh rộng mở ra
Tình hạnh phúc không hề có.

Bị tước mất vũ khí, đời người lính còn gì
Khi người ta đem đặt thứ khác vào số phận
Mỗi buổi sáng thức giấc thấy đời trống vắng
Rồi chờ đợi buổi chiều với một nỗi buồn thương
Không cần nước mắt đâu. Đó là cuộc đời anh
Tình hạnh phúc không hề có.

Tình của anh và nỗi đau, nỗi đau đớn của anh
Như con chim bị thương, em trong tim anh đó
Anh và em bước đi dưới ánh mắt thiên hạ.
Anh bện vào những lời rồi nhắc lại những lời anh
Vì đôi mắt của em mà người ta xin chết sẵn sàng
Tình hạnh phúc không hề có.

Không, ta đã muộn màng để học cách sống từ đầu
Cứ để cho hai con tim trong buổi chiều cùng đau khổ
Cần đau đớn để cho bài ca sinh hạ
Và lòng thương, khi đám cháy đã không còn
Cần thổn thức để cùng cây đàn ghi ta hát lên
Tình hạnh phúc không hề có.

Không có trên đời tình yêu mà không biết đến đau thương
Không có trên đời tình yêu mà khổ đau không mang đến
Không có trên đời tình yêu mà không sống bằng đau đớn
Và anh cũng như em, vẫn yêu đất nước quê hương
Không có tình yêu mà không có nước mắt, đau buồn
Tình hạnh phúc không có nhưng tình vẫn sống
Và đâu phải vì điều này mà anh hết yêu em.





Il n’y a pas d’amour heureux


Rien n’est jamais acquis à l’homme. Ni sa force

Ni sa faiblesse ni son coeur. Et quand il croit
Ouvrir ses bras son ombre est celle d’une croix;
Et quand il croit serrer son bonheur il le broie.
Sa vie est un étrange et douloureux divorce;
Il n’y a pas d’amour heureux.

Sa vie, elle ressemble à ces soldats sans armes

Qu’on avait habillés pour un autre destin.
A quoi peut leur servir de ce lever matin
Eux qu’on retrouve au soir désoeuvrés incertains.
Dites ces mots ma vie et retenez vos larmes;
Il n’y a pas d’amour heureux.

Mon bel amour mon cher amour ma déchirure

Je te porte en moi comme un oiseau blessé
Et ceux-là sans savoir nous regardent passer
Répétant après moi les mots que j’ai tressés
Et qui pour tes grands yeux tout aussitôt moururent
Il n’y a pas d’amour heureux.

Le temps d’apprendre à vivre il est déjà trop tard

Que pleurent dans la nuit nos coeurs à l’unisson
Ce qu’il faut de malheur pour la moindre chanson
Ce qu’il faut de regrets pour payer un frisson
Ce qu’il faut de sanglots pour un air de guitare
Il n’y a pas d’amour heureux.

Il n’y a pas d’amour qui ne soit douleur.

Il n’y a pas d’amour dont on ne soit meurtri.
Il n’y a pas d’amour dont on ne soit flétri.
Et pas plus que de toi l’amour de la patrie
Il n’y a pas d’amour qui ne vive de pleurs.
Il n’y a pas d’amour heureux.
Mais c’est notre amour à tous les deux.


SAO CÁ ĐEN

Bầu trời xanh soi mình trên dòng nước
Một con thuyền trên sóng nước tròng trành
Con thuyền nghiêng, nghiêng hẳn về một bên
Người đánh cá khỏa chân trên dòng nước.
Ánh mặt trời vàng, lăn tăn gợn nước
Khi thuyền ghé vào lớp cát tận cùng
Người vẽ những tia sáng tối đan xen
Ngày giấu mình sâu trong làn nước biếc
Trong mắt Thiên ngư đọng một nỗi buồn.


Les Poissons noirs


La quille de bois dans l’eau blanche et bleue

Se balance a peine Elle enfonce un peu
Du poids du pecheur couche sur la barge
Dans l’eau bleue et blanche il traine un pied nu
Et tout l’or brise d’un ciel inconnu
Fait au bateau brun des soleils en marge
Filets filets blonds filets filets gris
Dans l’eau toute bleue ou le jour est pris
Les lourds poissons noirs revent du grand large.




ĐÔI MẮT ENXA

Anh uống đã hạnh phúc trong đôi mắt sâu thẳm của em
Thấy tất cả mặt trời cũng đến đây chiêm ngưỡng
Vì đôi mắt này mà đã chết đi bao nhiêu tuyệt vọng
Trong đôi mắt sâu anh đánh mất trí nhớ của mình.

Trong bóng của bầy chim, biển cả dậy sóng lên
Và trong ngày đẹp trời đôi mắt em thay đổi
Hè may áo cho thiên thần từ những làn mây rối
Trời ở đâu xanh hơn như lúa mạch trên đồng.

Những ngọn gió vô vọng xua nỗi buồn thiên thanh
Đôi mắt em sáng hơn khi mắt tuôn dòng lệ
Đôi mắt em trước cơn mưa với trời xanh ghen tỵ
Kính không đâu xanh bằng nơi kính vỡ viền xanh. 

Bảy nỗi đau Đức Mẹ* làm ánh sáng ẩm ướt hơn
Bảy thanh kiếm xuyên vào giữa tâm bao màu sắc
Ngày buồn nhất đến giữa những dòng nước mắt
Mắt đen đã xanh hơn khi cảm thấy nỗi đau buồn.

Hai con mắt xanh thắm như hai mặt nước hồ
Làm tái hiện sự diệu kỳ trong cái ngày Đạo sĩ
Đã bồi hồi khi nhìn thấy ngôi nhà của Chúa
Và ba áo choàng treo trên máng cỏ Mẹ Maria.

Chỉ cần một bờ môi là đủ cho cả mùa xuân
Để nói lên những lời, để hát lên bao câu hát
Nhưng cả triệu triệu ngôi sao, một bầu trời quá chật
Cần đôi mắt em, cần những bí mật của mắt em.

Khi đứa bé nhìn tấm hình, nó mới lạ lùng chưa
Đôi mắt nó mở to nhưng cũng không đến nỗi
Như đôi mắt em, không biết rằng em có dối
Đôi mắt mở ra như hoa dại nở dưới mưa. 

Tia chớp ẩn mình trong oải hương lấp lánh
Nơi lũ côn trùng đang chối bỏ yêu thương
Giữa bao vì tinh tú anh đánh mất con đường
Như người thủy thủ chết chìm trong tháng tám.

Anh lấy ra từ quặng mỏ chất ra-đi-um
Dù cho bàn tay anh bị thiêu trong lửa cháy
Một trăm lần thiên đường đánh mất rồi trở lại
Đôi mắt em là Peru, là Ấn Độ, Hồng Kông.

Và nếu như một ngày vũ trụ nổ tung ra
Và con tàu của anh mắc kẹt vào bãi đá
Thì anh sẽ vẫn thấy sáng ngời trên biển cả
Đôi mắt Enxa, đôi mắt Enxa, đôi mắt Enxa.
________________

*Bảy nỗi đau của Đức Mẹ - 1.Giêsu cắt bao qui đầu. 2.Hành trình đế Ai Cập. 3.Giêsu 12 tuổi bị lạc trong đền. 4. Giêsu vác thập ác lên Can-vê. 5.Giêsu bị đóng đinh. 6.Hạ xác Giêsu xuống khỏi thập ác. 7.An táng Giêsu trong mộ.



Les Yeux d'Elsa


Tes yeux sont si profonds qu'en me penchant pour boire

J'ai vu tous les soleils y venir se mirer
S'y jeter à mourir tous les désespérés
Tes yeux sont si profonds que j'y perds la mémoire

À l'ombre des oiseaux c'est l'océan troublé

Puis le beau temps soudain se lève et tes yeux changent
L'été taille la nue au tablier des anges
Le ciel n'est jamais bleu comme il l'est sur les blés

Les vents chassent en vain les chagrins de l'azur

Tes yeux plus clairs que lui lorsqu'une larme y luit
Tes yeux rendent jaloux le ciel d'après la pluie
Le verre n'est jamais si bleu qu'à sa brisure

Mère des Sept douleurs ô lumière mouillée

Sept glaives ont percé le prisme des couleurs
Le jour est plus poignant qui point entre les pleurs
L'iris troué de noir plus bleu d'être endeuillé

Tes yeux dans le malheur ouvrent la double brèche

Par où se reproduit le miracle des Rois
Lorsque le coeur battant ils virent tous les trois
Le manteau de Marie accroché dans la crèche

Une bouche suffit au mois de Mai des mots

Pour toutes les chansons et pour tous les hélas
Trop peu d'un firmament pour des millions d'astres
Il leur fallait tes yeux et leurs secrets gémeaux

L'enfant accaparé par les belles images

Écarquille les siens moins démesurément
Quand tu fais les grands yeux je ne sais si tu mens
On dirait que l'averse ouvre des fleurs sauvages

Cachent-ils des éclairs dans cette lavande où

Des insectes défont leurs amours violentes
Je suis pris au filet des étoiles filantes
Comme un marin qui meurt en mer en plein mois d'août

J'ai retiré ce radium de la pechblende

Et j'ai brûlé mes doigts à ce feu défendu
Ô paradis cent fois retrouvé reperdu
Tes yeux sont mon Pérou ma Golconde mes Indes

Il advint qu'un beau soir l'univers se brisa

Sur des récifs que les naufrageurs enflammèrent
Moi je voyais briller au-dessus de la mer
Les yeux d'Elsa les yeux d'Elsa les yeux d'Elsa




ANH LÀ GÌ NẾU CHẲNG CÓ EM 


Anh là gì nếu như em chẳng đến với anh

Anh là gì – chỉ là con tim đang yên ngủ
Là chiếc kim đồng hồ đứng yên trên mặt số
Nếu không có em – anh chỉ tiếng thì thầm.

Anh nhận thức ra cuộc đời là bởi do em

Nhờ em mà anh nhìn đời bằng đôi mắt khác
Anh học em như người ta uống nguồn nước mạch
Để những ngôi sao xa cũng nhìn thấy rõ ràng
Như ở người qua đường biết nắm bắt câu hát
Anh học được ở em dù ngay cả cơn run.

Anh là gì nếu như em chẳng đến với anh

Anh là gì – chỉ là con tim đang yên ngủ
Là chiếc kim đồng hồ đứng yên trên mặt số
Nếu không có em – anh chỉ tiếng thì thầm.

Anh học ở em mọi điều, rằng anh giờ đây

Giữa buổi ban trưa trời xanh thắm như vầy
Rằng hạnh phúc không phải ngọn đèn nơi quán rượu
Em cầm lấy tay anh giữa Địa ngục thời hiện đại
Nơi con người đã không còn biết nghĩa chung đôi
Em cầm tay anh như người yêu sung sướng nhất đời. 

Anh là gì nếu như em chẳng đến với anh

Anh là gì – chỉ là con tim đang yên ngủ
Là chiếc kim đồng hồ đứng yên trên mặt số
Nếu không có em – anh chỉ tiếng thì thầm.

Ai nói về hạnh phúc thường đôi mắt buồn bã

Tiếng thở than đời với tuyệt vọng chua cay
Như dây đàn đứt trên tay người nghệ sĩ
Nhưng tôi xin nói rằng hạnh phúc tồn tại
Không phải ở trong mơ, không phải trên mây
Mà ở nơi đây! Ngay trên mặt đất này. 

Anh là gì nếu như em chẳng đến với anh

Anh là gì – chỉ là con tim đang yên ngủ
Là chiếc kim đồng hồ đứng yên trên mặt số
Nếu không có em – anh chỉ tiếng thì thầm.



Que serais-je sans toi


Que serais-je sans toi qui vins à ma rencontre 

Que serais-je sans toi qu'un coeur au bois dormant 
Que cette heure arrêtée au cadran de la montre 
Que serais-je sans toi que ce balbutiement.

J'ai tout appris de toi sur les choses humaines 

Et j'ai vu désormais le monde à ta façon 
J'ai tout appris de toi comme on boit aux fontaines 
Comme on lit dans le ciel les étoiles lointaines 
Comme au passant qui chante on reprend sa chanson 
J'ai tout appris de toi jusqu'au sens du frisson.

Que serais-je sans toi qui vins à ma rencontre 

Que serais-je sans toi qu'un coeur au bois dormant 
Que cette heure arrêtée au cadran de la montre 
Que serais-je sans toi que ce balbutiement.

J'ai tout appris de toi pour ce qui me concerne 

Qu'il fait jour à midi qu'un ciel peut être bleu 
Que le bonheur n'est pas un quinquet de taverne 
Tu m'as pris par la main dans cet enfer moderne 
Où l'homme ne sait plus ce que c'est qu'être deux 
Tu m'as pris par la main comme un amant heureux.

Que serais-je sans toi qui vins à ma rencontre 

Que serais-je sans toi qu'un coeur au bois dormant 
Que cette heure arrêtée au cadran de la montre 
Que serais-je sans toi que ce balbutiement.

Qui parle de bonheur a souvent les yeux tristes 

N'est-ce pas un sanglot de la déconvenue 
Une corde brisée aux doigts du guitariste 
Et pourtant je vous dis que le bonheur existe 
Ailleurs que dans le rêve ailleurs que dans les nues 
Terre terre voici ses rades inconnues.

Que serais-je sans toi qui vins à ma rencontre 

Que serais-je sans toi qu'un coeur au bois dormant 
Que cette heure arrêtée au cadran de la montre 
Que serais-je sans toi que ce balbutiement.




NGỦ CHUNG

Dù buổi tối, buổi đêm, buổi sáng, buổi chiều
Dù thiên đàng hay ở nơi địa ngục 
Dù ngày thứ hai hay ngày chủ nhật
Hai đứa mình vẫn sống để mà yêu.

Ngày hôm qua anh đã nói với em
Rằng chúng mình sẽ ngủ chung em nhé
Ngày hôm qua, rồi ngày mai vẫn thế
Không nơi nao anh còn phải đi tìm. 

Anh đặt tim mình vào bàn tay em
Hai con tim sẽ hòa chung nhịp đập
Dù thời gian trên đầu ta bay lướt
Thì hai đứa mình vẫn cứ ngủ chung.

Thời gian trôi vẫn đằm thắm cuộc tình
Tấm màn che trên đầu ta vẫn sáng
Anh ôm em vào lòng rất đằm thắm
Và yêu em, như ngày ấy, vẫn run.

Đến một ngày em còn nói rằng yêu
Thì chúng mình sẽ còn ngủ với nhau.


Nous dormirons ensemble


Que ce soit dimanche ou lundi

Soir ou matin minuit midi
Dans l’enfer ou le paradis
Les amours aux amours ressemblent

C’était hier que je t’ai dit

Nous dormirons ensemble
C’était hier et c’est demain
Je n’ai plus que toi de chemin

J’ai mis mon cœur entre tes mains

Avec le tien comme il va l’amble
Tout ce qu’il a de temps humain
Nous dormirons ensemble

Mon amour ce qui fut sera

Le ciel est sur nous comme un drap
J’ai refermé sur toi mes bras
Et tant je t’aime que j’en tremble

Aussi longtemps que tu voudras

Nous dormirons ensemble