Anatole France (tên thật là François-Anatole Thibault, 16 tháng 4 năm 1844 – 13 tháng 10 năm 1924) – nhà văn Pháp đoạt giải Nobel Văn học năm 1921 “vì những tác phẩm xuất sắc mang phong cách tinh tế, chủ nghĩa nhân văn sâu sắc và khí chất Gôloa đích thực”. Ông là một tiểu thuyết gia thành công với nhiều cuốn sách bán chạy nhất. Với vẻ mỉa mai, chua chát và hoài nghi, ông được coi là một nhà văn lý tưởng của nước Pháp. France cũng được nhiều người tin là hình mẫu trong tác phẩm Đi tìm thời gian đã mất của Marcel Bergotte.
Tiểu sử:
Anatole France sinh ở Paris, là con của một chủ cửa hàng sách, từ nhỏ đã ham mê văn học, nghệ thuật. Học ở trường Collège Stanislas. Trong thập niên 1860, France tiếp xúc với nhóm Parnasse (Thi Sơn) và xuất bản tập thơ đầu tiên (1873). Sau đó ông chuyển sang viết văn xuôi và thật sự có tiếng tăm khi cuốn tiểu thuyết Le crime de Sylvestre Bonnard (Tội ác của Sylvestre Bonnard, 1881) ra đời và được nhận giải thưởng Viện Hàn lâm Pháp. Trong thập niên 1890, ông viết nhiều bài phê bình văn học cho Le Temps (Thời báo) và in thành 4 tập sách với tên La vie littéraire (Đời sống văn học).
Những năm cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, tư tưởng và sáng tác của Anatole France đã có những thay đổi. Ông từ bỏ lập trường người quan sát để trở thành chiến sĩ đấu tranh cho nền dân chủ. Cụ thể là trước kia ông thường miêu tả cuộc sống và con người thời kỳ Trung cổ hoặc thời kỳ suy vong của chế độ phong kiến, thì nay ông viết về các sự kiện lịch sử và xã hội đương đại, đồng thời tiếp tục truyền thống nhân văn chủ nghĩa của Rabelais và Voltaire, phê phán nền cộng hòa thứ ba của Pháp, chế giễu không thương xót những kẻ gây chiến tranh xâm lược tàn khốc.
Anatole France là một trong những nhà văn lớn nhất của nước Pháp thời cận đại, trải qua một con đường khó khăn và phức tạp từ chủ nghĩa nhân đạo ảo tưởng đến chủ nghĩa hiện thực cách mạng. Ngoài văn xuôi, France còn là một nhà thơ, nhà phê bình xuất sắc nhất về thực tế đương đại của nước Pháp. Ông thể hiện sự yếu kém và suy giảm đạo đức của bản chất con người, sự không hoàn hảo và sự quái gỡ của đời sống xã hội, của phong tục, của quan hệ con người, nhưng trong những lời chỉ trích của ông có một sự hòa giải đặc biệt, sự chiêm niệm triết học và sự thanh thản được sưởi ấm bằng tình cảm yêu thương đối với nhân loại. Ông không phán xét và không giảng đạo đức, mà chỉ đào sâu vào ý nghĩa của các hiện tượng tiêu cực. Đấy là sự kết hợp của sự mỉa mai với một tình yêu dành cho những người có một sự hiểu biết nghệ thuật về cái đẹp trong tất cả các hình thức của cuộc sống và là một đặc trưng trong các tác phẩm của ông.
Đối với thơ ca, France cho rằng: “Thơ hay cũng giống như một sự ghép nối với những phần rung động trong bản thể của chúng ta. Không của riêng mình – ý nghĩ của ta buộc nhà thơ phải hát lên trong ta. Kể cho ta nghe về người phụ nữ mà nhà thơ yêu, đánh thức trong hồn ta tình yêu và nỗi khổ của ta. Nhà thơ là nhà ảo thuật. Hiểu được nhà thơ, chúng ta trở thành những nhà thơ như anh ta”. Và ông quan niệm: “Việc làm thơ gần với việc thờ cúng hơn là như ta tưởng”.
Anatole France qua đời ngày 13 tháng 10 năm 1924 và được chôn cất tại nghĩa trang Neuilly-sur-Seine gần Paris.
Tác phẩm:
*Những câu thơ vàng (Poèmes dorés,
1873), thơ
*Đám cưới ở Corinthe (Les Noces
corinthiennes, 1876), kịch thơ
*Jocaste và con mèo gầy (Jocaste
et Le Chat maigre, 1879), truyện
*Tội ác của Sylvestre Bonnard Le
Crime de Sylvestre Bonnard, membre de l'Institut, 1881), tiểu thuyết
*Những khát vọng của Jean Servien
(Les Désirs de Jean Servien, 1872-1882), tiểu thuyết
*Sách của bạn tôi (Le Livre de mon
ami, 1885), hồi ký
*Balthasar (1889), truyện ngắn
*Đời sống văn học (La vie
littéraire, 1888-1892), phê bình văn học, 4 tập
*Thaïs (1890) tiểu thuyết
*Chiếc rương xà cừ (L’Étui de
nacre, 1892), tập truyện
*Cửa hàng thịt quay của nữ hoàng
Pédauque (La Rôtisserie de la reine Pédauque, 1893), tiểu thuyết
*Những ý kiến của Jêrôme Coignard
(Les Opinions de Jérôme Coignard, 1893), tiểu thuyết
*Bông huệ đỏ (Le Lys rouge, 1894),
tiểu thuyết
*Vườn Epicure (Le Jardin
d'Épicure, 1894), tập cách ngôn
*Cái giếng của Thánh nữ Claire (Le
puits de Sainte Claire, 1895), tập truyện
*Pierre Nozière (1899), hồi kí
*Chuyện thời nay (L'histoire
contemporaine, gồm 4 tiểu thuyết:
*Cây đu trên đường dạo chơi (L'Orme
du mail, 1897),
*Hình người bằng cây liễu (Le
Mannquin d'osier, 1897),
*Chiếc nhẫn tử thạch anh (L'Anneau
d'amethyste, 1899) và
*Ông Bergeret ở Paris (Monsieur
Bergeret à Paris, 1901)
*Clio (1900), tập truyện
*Dư luận xã hội (Opinions
sociales, 1902), tiểu luận
*Vụ việc Crainquebille (L'Affaire
Crainquebille, 1901), truyện ngắn, năm 1903 chuyển thể thành vở kịch
Crainquebille
*Nhà thờ và nền cộng hòa (L'église
et la république, 1904), tiểu luận
*Crainquebille, Putois, Riquet và
những câu chuyện có ích khác (Crainquebille, Putois Riquet et plusieurs autres
récits profitables, 1904), tập truyện ngắn
*Trên phiến đá trắng (Sur la piere
blanche, 1905), tiểu thuyết
*Hướng đến những thời tốt đẹp hơn
(Ver les temps meilleurs, 1906), tiểu luận
*Đảo Pingouins L'Île des Pingouins, 1908), tiểu thuyết
*Đời Jeanne d'Arc (Vie de Jeanne
d'Arc, 1908), truyện danh nhân lịch sử
*Bảy người vợ của Râu Xanh (Les
Sept Femmes de Barbe bleue et autres contes merveilleux, 1909), tập truyện
*Thần linh khát (Les Dieux ont
soif, 1912), tiểu thuyết
*Thần Latin (Le Génie latin,
1913), tiểu luận
*Thiên thần nổi loạn (La Révolte
des anges, 1914), tiểu thuyết
*Trên đường vinh quang (Sur la
voie glorieuse, 1915), tập tiểu luận
*Những người bị giết của chúng ta
nói gì (Ce que disent nos morts, 1916), tập tiểu luận
*Pierre bé nhỏ (Le Petit Pierre,
1918), hồi ký
*Cuộc sống nở hoa (La Vie en
fleur, 1922), hồi ký
Một số bài thơ:
CÂY
Cây nở hoa trong vẻ đẹp yên bình
Cho
đồng ruộng và núi đồi sống động
Bao
thế hệ cây màu xanh tĩnh lặng
Sống
bằng mặt trời và những giọt sương.
Niềm đam mê sinh ở chốn trần gian
Vẫn khát khao hướng về nguồn ánh
sáng
Mẹ thánh thiện đem tình yêu ban
tặng
Cho các người, ấm áp tỏa mùi
hương.
Các người tựa như khát vọng được sinh
Khát vọng nở hoa trong ngày thánh
thiện
Dù ngày trước linh hồn mong nổi
loạn
Từ hỗn mang hồn tìm thấy cho mình.
Trong giới hạn của vật chất lặng câm
Rễ các người cắm sâu vào lòng đất
Nhân lên cuộc đời xua đi cái chết
Giá trị cuộc đời còn đến muôn năm.
ƯỚC MONG
Ước mong nơi trần thế chỉ vô thường
Niềm khát khao lớn nhanh rồi tàn lụi
Người phụ nữ như hoa tàn lụi ấy
Còn giữ hồn ta cùng với mùi hương.
Đôi bàn tay mềm mại như đất kênh
Rất nhẹ nhàng quấn vòng tròn quanh cổ
Trước khi cái vòng dịu êm bị vỡ
Gợi cho ta niềm hạnh phúc lâng lâng.
Mái tóc đen chảy bồng bềnh như đêm
Vào sâu thẳm sang trọng và tăm tối
Liệu có ai có thể chìm mãi mãi
Vào cái chết và trong bóng của mình?
Lỗ mũi giống như đôi cánh rung lên
Trong niềm kiêu hãnh chứa đầy khinh miệt
Rằng tất cả đấy là lần sau chót
Rằng sự biệt ly đã đến rất gần.
Đôi bờ môi tựa như cánh hoa hồng
Lòng say đắm khi bờ môi khẽ chạm
Đó là vũ khí của đêm gợi cảm
Lửa cháy lên rồi hoa bỗng héo hon.
Hai đôi môi dường như đã dính liền
Nụ hôn dài dường như nhầm mục đích
Làm sao giữ ngọn lửa dường đã tắt
Khi tro tàn trên bờ ngực mong manh?
TÂM HỒN CỦA BÉ
Trong thiên nhiên bất biến
Khi đứa bé vừa sinh
Thì ý thức trẻ con
Nhận ra điều bí hiểm.
Ánh mắt chưa cảm nhận
Nhìn mọi thứ quanh mình
Những gì mắt bé nhìn
Mang lại niềm vui lớn.
Thiên thần chưa nhận biết
Tiếng nước chảy rì rào
Bé chưa nói nhưng nghe
Đời trong thế giới khác.
Đôi mắt bé mở to
Đầy ước mơ kỳ lạ
Bé là thiên thần nhỏ
Trong thế giới cổ xưa.
Mái đầu nhẹ hân hoan
Ước mơ mang cho bé
Điều người lớn không thể
Thấy cuộc sống tưng bừng.
THÉRA*
Túi da dê này đựng rượu đầy căng
Nguồn nước sống làm từ nho chín mọng
Théra màu đen căng mình trên sóng
Dưới mặt trời vàng trên bọt biển xanh.
Théra giờ không còn đào kim nương
Và ngải đắng, sồi xanh không còn nữa
Từ ngày hiện những mạch nguồn nứt nẻ
Thì Diêm Vương đã phun lửa không ngừng.
Vầng trán cau có nhuốm một màu hồng
Giữa đôi gò bồng đảo dòng suối nhỏ
Như những nữ thần Bacchante hoang dã
Với những chùm nho nguyên vẹn bên hông.
___________
*Théra là tên cổ điển của đảo Santorini – một hòn đảo ở miền nam biển Aegea, cách Hy Lạp lục địa 200 km. Théra cổ điển với nghề nấu rượu nho ngon nổi tiếng.
** Bacchante (hay Menades) – những người đồng hành và những người hâm mộ Dionysus, là vị thần của rượu nho.
THÉRA*
Túi da dê này đựng rượu đầy căng
Nguồn nước sống làm từ nho chín mọng
Théra màu đen căng mình trên sóng
Dưới mặt trời vàng trên bọt biển xanh.
Théra giờ không còn đào kim nương
Và ngải đắng, sồi xanh không còn nữa
Từ ngày hiện những mạch nguồn nứt nẻ
Thì Diêm Vương đã phun lửa không ngừng.
Vầng trán cau có nhuốm một màu hồng
Giữa đôi gò bồng đảo dòng suối nhỏ
Như những nữ thần Bacchante hoang dã
Với những chùm nho nguyên vẹn bên hông.
___________
*Théra là tên cổ điển của đảo Santorini – một hòn đảo ở miền nam biển Aegea, cách Hy Lạp lục địa 200 km. Théra cổ điển với nghề nấu rượu nho ngon nổi tiếng.
** Bacchante (hay Menades) – những người đồng hành và những người hâm mộ Dionysus, là vị thần của rượu nho.
TIẾNG
PHÁP NHƯ MỘT NGƯỜI PHỤ NỮ
Tiếng
Pháp như một người phụ nữ
Người
phụ nữ đẹp vô cùng
Người
phụ nữ kiêu căng
Người
phụ nữ khiêm tốn.
Người
phụ nữ can đảm
Người
làm ta mủi lòng
Người
phụ nữ trắng trong
Và rất
cao thượng.
Người
phụ nữ thân quen
Người
phụ nữ điên cuồng
Người
phụ nữ khôn khéo
Mà ta
yêu bằng tất cả tấm lòng
Và mãi
thủy chung.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét